Tôi xin mượn đầu đề một bài thơ nổi tiếng, sau là tên tập thơ luôn, của nhà thơ Dương Hương Ly “Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ” để viết về bạn tôi, nhà thơ Phạm Đức Long những ngày đầu đến Gia Lai lập nghiệp và bước vào nghiệp viết.
Hồi ấy, tôi
đang là thư ký tòa soạn Tạp chí Văn Nghệ Gia Lai Kon Tum, trực thuộc Ty Văn Hóa
Gia Lai Kon Tum, ở căn phòng trong khu tập thể vốn là khu gia binh cũ trên đường
Trần Hưng Đạo, giờ là cái... gốc nhãn gần cái bốt gác quảng trường. Chủ nhật,
mưa, có một người mặc áo mưa lụp xụp tới tìm nhà tôi, giới thiệu tên mình là Phạm
Văn Long, kỹ sư nông nghiệp ngành thú y, mới lên nhận công tác ở Ty Nông nghiệp
Gia Lai Kon Tum, đang ở nhà khách của ty cũng ở trên đường Trần Hưng Đạo (giờ
là trụ sở hội VHNT Gia Lai). Tất nhiên là pha trà mời, hồi ấy trà Bàu Cạn đang
thịnh hành. Sáng chưa ăn gì mà chơi bình trà cũng... thổn thức lắm. Long hỏi
tôi về Tạp chí, tôi bảo sao biết Tạp chí, bảo em lên đây ở nhà khách đợi phân
công công tác, chả biết làm gì, thấy có mấy cuốn tạp chí ai để ở đấy, bèn đọc.
Cuộc chuyện đang có cơ rời rạc thì mặn hẳn lên, chúng tôi nói chuyện văn
chương, từ Nguyễn Du tới La Quán Trung, từ Nguyễn Công Trứ tới Lý Bạch, từ Khổng
Tử tới Mạnh và Lão Tử... và tôi ngạc nhiên, bởi một ông bác sĩ bò lợn gà vịt mà
đọc nhiều thế, hiểu nhiều thế. Tôi học văn ra nó đi một nhẽ, đằng này...
Rồi trước khi
về, Long rụt rè lôi từ túi quần ra một cuốn vở học trò cuốn tròn, mực lem nhem
vì mưa, đưa tôi nói, em mới làm mấy bài thơ, nhờ anh xem hộ (bản thảo ký tên Phạm Đức Long và là bút danh của Long tới giờ). Tôi hồi ấy cũng chỉ
mới mươi bài thơ đã đăng báo làm gia tài chứ cũng chưa phải là nhà nhiếc gì dù
có làm thơ từ hồi sinh viên, à không, từ hồi học phổ thông, nên thấy Long vừa
trang trọng vừa rụt rè cũng bèn... rụt rè lại.
Rồi tôi đọc,
thấy có hơn tháng mà ông ấy làm hai chục bài thơ thì nể quá. Tất nhiên mới chỉ
là thấy gì ghi nấy, như thấy em bé đập hạt Ki - a ăn thì làm bài thơ “Đập hạt
Ki - a với em bé Tây nguyên”, sau này tôi có hỏi hạt Ki - a là hạt gì, Long bảo
thì em cứ viết thế. Rồi bài thơ về lớp học nào đấy trong rừng, tôi còn nhớ có sửa
cho Long 2 câu cũng sến súa lắm “Bảng đen
làm cánh cửa, mắt đen tròn ý thơ”. Cả 2 bài này tôi đăng ngay vào số Tạp
chí sau đấy... và rồi từ đấy Long làm thơ như vũ bão, như dã quỳ gặp nắng, như
Ba zan gặp mưa... Và hay dần lên.
Một cái tết,
hình như là năm 1985, mấy anh em làm thơ độc thân đến nhà tôi, khi ấy tôi vừa
cưới vợ được 1 năm, đón giao thừa. Nhà tôi khi ấy nó như cái câu lạc bộ văn nghệ
sĩ, anh em trong tỉnh quây quần đã đành, các nơi tới cũng đều ghé lại, cái nhà
tập thể, căng rido 1/3 kê cái giường của vợ chồng tôi, một cái giá sách, một
cái bàn vừa là bàn uống nước, tiếp khách vừa là bàn viết. Và dưới chân cái bàn ấy
là nơi trải chiếu đón văn nhân cả nước ngủ lại.
Chúng tôi đón
giao thừa bằng rượu mía, xôi và pháo (hồi ấy còn được đốt pháo). Xong rồi Long
đạp xe về nhà ở đường Nguyễn Du, sáng mai lại cọc cạch đạp sang nhà tôi và đưa
tôi bài thơ “Khoảng trời lá thông” viết vào lúc khoảng 2, 3 giờ sáng mùng 1 năm ấy,
tôi đọc và run người. Thi sĩ đích thực đã xuất hiện. Long đã vượt qua cái sự thấy
gì viết nấy, vượt qua sự nôm na để xuất thần ra ý, ra tứ, ra hình ảnh, mà hun
hút và ám ảnh...
Khoảng trời lá thông
hương chín rụng như mơ/tôi có tuổi hai mươi ở đó/có nắng có mưa có những cơn lốc
đỏ/có mùa xuân im lặng kéo qua đời. Khoảng trời lá thông bạn tôi cũng đói
nghèo/thương nhau tránh cái nhìn cùng quẫn/thương nhau giữ tròn lẽ sống/giữa trắng
đen hư thực thăng trầm”.
Sau đấy là
bài “Hoa giong riềng” cũng đầy thi sĩ: “Đã
qua lứa tuổi hai mươi/ Bỗng gặp hoa giong riềng nở/ Mùa thu vô tình đốt lửa/ Giữa
ngày mưa bụi trắng trời...”... Để giờ Long là nhà thơ, tác giả của mười mấy
đầu sách, hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam. Khác với bạn thơ cùng lứa là Hương
Đình có thơ từ hồi đi học, Long lên đây mới bập vào nghề viết, và thành danh,
nên gọi nơi đây là mảnh đất nuôi Long thành thi sĩ cũng hoàn toàn có lý, không
ngoa.
Chuyện Phạm Đức
Long cưới vợ cũng vui.
Chúng tôi lo
cho nhau từng ly từng tí, ăn gì, như thế nào, thuốc nước làm sao cho rẻ. Riêng
việc hội trường và trang trí thì tôi, Hương Đình và Chử Anh Đào lo. Người trực
tiếp cắt dán trang trí hội trường là Hương Đình và Chử Anh Đào khi này đang là
cán bộ Ty giáo dục, và đám cưới thì mượn (hay thuê tôi không nhớ nữa) hội trường
ty Giáo dục. Tôi nhớ chúng tôi bàn nhau, trên tường hội trường sẽ cắt tên các cặp
đôi nổi tiếng trong lịch sử văn chương, như Romeo
Juliet, Kim Trọng Thúy Kiều, Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, Lục Vân Tiên Kiều Nguyệt
Nga, Quasimodo Esmerald, Othello Desdemona và Chí Phèo Thị Nở. Khi tôi đưa danh sách thì cả 2 ông Chử Anh Đào và
Hương Đình đều đồng ý chỉ hơi ngại cái cặp cuối cùng, bảo lỡ Long hiểu khác, bởi
vợ nó ngành y, khách đến chả hiểu ý lại nghĩ rằng tụi mình bảo vợ chồng nó là
Phèo với Nở. Tôi bảo để tớ hỏi nó. Và lọc cọc đạp xe đi tìm ông Long để hỏi,
Long cười ha hả, vô tư đi ạ.
Đám cưới
đông, uống trà, ăn kẹo, hút thuốc, cắn hạt dưa mù mịt, chả thấy ai thắc mắc gì
về các cặp đôi nổi tiếng chúng tôi cắt dán đầy trên vách hội trường kia.
Giờ cả 2 vợ
chồng Phạm Đức Long đều đã về hưu, các con đều đã phương trưởng, đã cho Long
lên chức ông, và bộ ba ngày nào là Long, Hương Đình và tôi vẫn hay cà phê sáng
với nhau, đều đang bám trụ ở Gia Lai. Số sau tôi kể về Hương Đình, một mảng gần
như đối lập với Long nhưng lại là cặp bài trùng của Văn nghệ Gia Lai gần nửa thế
kỷ qua...
(Khi in báo BTV sửa cái tít vô duyên quá, thêm 2 chữ Phạm Đức vào, nó trật trìa vô duyên, mà lại vẫn giữ nguyên đoạn mượn thơ anh BMQ)
Các bài về Long nhà cháu viết:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét