Nhưng có lẽ, theo thiển nghĩ của tôi, không phải “rút từ trong tập thơ“bến đợi”, mà phải hiểu và nói rằng, “tượng mồ” là một bài thơ nhỏ, được rút ra từ bài thơ lớn:“bến đợi”, mới đúng. Ai quan tâm đến thẩm định ý kiến này của tôi, xin hãy tìm đọc “bến đợi”. Phần mình, tôi muốn để một dịp khác sẽ tiếp tục quay lại tập thơ đầu tiên này của Văn Công Hùng(1). Ở đây, chỉ xin lưu ý, rằng “tượng mồ” được tôi dẫn trích nguyên bản, từ chữ viết hoa, không viết hoa, cách dòng, viết nghiêng… như trong sách. Vì “trình bày và sửa bản in” sách này là chính tác giả. Và bởi vì hình thức trình bày tập thơ, chữ viết của thơ in trong sách… thảy đều mang thông điệp nội dung ngữ nghĩa của tập thơ...
Mặc khải “tượng mồ”
LÊ XUÂN LÂM
------
Đây là bài thơ “tượng mồ” của nhà thơ Văn Công Hùng:
TƯỢNG MỒ
Chiều như lửa đốt lòng
nhau
tượng mồ run rẩy về
đâu kiếp người
đã đành hồn sẽ rong
chơi
đã đành xác đã tơi bời
gió sương
mà còn đây nỗi vấn
vương
mà còn đây nhớ với
thương một đời
nỗi đau khóc chẳng
thành lời
lặn vào thớ gỗ ru người
– người ơi
hoang sơ
chiều rót tràn vai
ché và chiêng
và đầy vơi rượu cần
nằm đây một nắm xương
tàn
đứng đây tượng hát một
ngàn lời yêu
chiều ơi chiều
chiều ơi chiều
cho tôi cùng hát tình
yêu một đời
Chư Đrăng, 1990.
Trước hãy nói ngay, là bài thơ “tượng mồ” mà tôi dẫn
ra đây, được rút từ trong tập thơ “Bến đợi” của Văn Công Hùng, do Hội
VHNT Gia Lai xuất bản năm 1992, trang 24 - 25...
Nhưng có lẽ, theo thiển nghĩ của tôi, không phải “rút từ
trong tập thơ“bến đợi”, mà phải hiểu và nói rằng, “tượng mồ” là một
bài thơ nhỏ, được rút ra từ bài thơ lớn:“bến đợi”, mới đúng. Ai quan tâm đến
thẩm định ý kiến này của tôi, xin hãy tìm đọc “bến đợi”. Phần mình, tôi muốn
để một dịp khác sẽ tiếp tục quay lại tập thơ đầu tiên này của Văn Công Hùng(1).
Ở đây, chỉ xin lưu ý, rằng “tượng mồ” được tôi dẫn trích nguyên bản,
từ chữ viết hoa, không viết hoa, cách dòng, viết nghiêng… như trong sách.
Vì “trình bày và sửa bản in” sách này là chính tác giả. Và bởi vì
hình thức trình bày tập thơ, chữ viết của thơ in trong sách… thảy đều mang
thông điệp nội dung ngữ nghĩa của tập thơ...
Chớ có để sót, chớ có bỏ qua! Vậy mà...
1. Mặc khải!...
Và xin các bạn yêu thơ hãy đọc “tượng mồ”đi …
Với tôi, từ lâu, ngay lần đầu đọc xong “tượng mồ”, tôi
đã kêu lên, “Đúng là Mặc khải“tượng mồ” !” Nay ở đây, tôi vẫn chỉ biết
kêu lên như thế!
Nhưng kêu thế thì chắc chỉ TƯỢNG MỒ mới hiểu tôi
kêu gì về CÂY “tượng mồ” mà nhà thơ đã dựng lên trong cái
buổi xế chiều, giữa một mùa LỄ HỘI BỎ MẢ (đồng bào gọi là “pơ
thi”) ở “Chư Đrăng…” năm ấy… mà thôi!...
Cho nên…, là tôi mong muốn để những ai đọc bài thơ này, cũng
sẽ cùng mặc khải với tôi, nên tôi thấy cần phải nói đôi chút về TƯỢNG
MỒ và về cả LỄ HỘI BỎ MẢ kia nữa. Vì đó chính là từ một hiện thực
thơ (lễ hội bỏ mả), mà đối tượng thơ (tượng mồ) đã được điển
hình hóa thành một hình tượng thơ (“tượng mồ”), của nhà thơ (Văn Công
Hùng), bằng bài thơ này. Vì nếu không, tôi dám chắc phần đông người đọc bài thơ
này sẽ khó có thể cảm nhận đủ được “tượng mồ” là một bài thơ hay đến
như thế nào! Đơn giản là bởi TƯỢNG MỒ và LỄ HỘI BỎ MẢ chính
là một đặc sản đặc trưng nhất, tiêu biểu nhất… cho văn hóa của đồng
bào các dân tộc ít người Tây Nguyên (từ đây, tôi xin gọi là người Thượng);
nhưng nó không phải là một phổ thông, để ai cũng dễ dàng cảm thụ và thức nhận
ngay được.
…Vâng, là tôi muốn nói, ai đã lên Tây Nguyên, đúng “mùa
con ong đi lấy mật”, nhất là thời cách đây dăm ba chục năm trở về trước, hay ít
nhất cũng là vào thời điểm nhà thơ viết bài thơ này, thì dù nghỉ đêm tại thị trấn,
thị xã, thành phố... xa làng bản của đồng bào, nhưng đêm đêm cũng vẫn có thể
nghe thấy tiếng cồng chiêng, từ bốn phía rừng vọng đến. Càng về khuya tiếng
chiêng nghe càng sâu lắng… rồi lịm dần như khúc cuối một bản bi - tình bolero…
Đó chính là tiếng cồng chiêng từ LỄ HỘI BỎ MẢ, thường
diễn ra trong ngót ba tháng trời, của người Thượng. Càng về những đêm cuối mùa
khô ấy, tiếng cồng chiêng càng dày đặc hơn, càng gấp gáp ngân vang… sâu… xa
hơn.
Bởi đó là khi LỄ BỎ MẢ đã rộ mùa HỘI lớn.
Nhưng bỏ mả là gì? Hiểu đơn giản thì bỏ mả tức là bỏ ma, là
không nuôi ma - là người chết, là không giữ mả - của người đã chết chôn dưới mồ
nữa. LỄ BỎ MẢ là một truyền thống văn hóa xưa, vẫn tồn tại đến nay,
trên nền tảng của một quan niệm nhân sinh của người Thượng, về sự sống và cái
chết.
Theo người Thượng, ai sống cũng đều do bởi có xác và hồn.
Nhưng khi người ta chết, là chỉ xác chết đã và sẽ... dần dần tan mất trong đất,
nhưng còn hồn thì vẫn sống, không bao giờ mất (không chết). Khi đã chết, người
chết hóa thành ma, gọi là Atâu; có hồn, gọi là hồn ma. Và ma vẫn sống
quanh quẫn nơi mộ phần. Vì vậy, sau khi chôn cất người đã chết, người nhà thường
dựng một ngôi nhà che mưa nắng cho phần mộ, gọi là nhà mồ, để ma ăn ở. Hằng
ngày, người thân của ma vẫn đem cơm nước cho ma ăn uống (một cách trực tiếp, bằng
đưa thẳng xuống dưới mộ qua một cây ống nứa, hay lồ ô đục lủng mắt...), vẫn
quét dọn nhà mồ sạch sẽ cho ma nghỉ ngơi, vẫn khóc hờ than thở chuyện trò cho
ma nghe…mãi cho đến khi (có thể đến nhiều năm sau), khi đã làm LỄ BỎ MẢ cho
ma mới thôi.
Thôi, là từ sau LỄ BỎ MẢ, tức là sau việc bỏ mả được
thực hiện, được làm xong rồi… là sau cuộc LỄ vĩnh biệt nhau mãi mãi rồi...
thì người sống và người chết sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Cũng từ
sau LỄ BỎ MẢ đó, “Cái chết được hồi sinh” và “Người sống được
giải phóng”(2). Hãy nhớ, “cái chết” chứ không phải “người chết”; “hồi sinh” chứ
không phải “sống lại”. “Cái chết được hồi sinh” nghĩa là theo quan niệm
mang ý nghĩa triết học nhân sinh nói trên của người Thượng, thì hồn người chết,
tức là ma, sau LỄ BỎ MẢ, sẽ mới được đến sống cùng tổ tiên, trong thế giới
ma của họ; để rồi từ miền đất đó, hồn lại lần hồi chuyển hóa trở về, nhập vào một
đứa trẻ nào đó, để lớn lên thành một người sống thực...
Cũng sau LỄ BỎ MẢ, thì “Người sống được giải phóng”. Tức
là người sống sẽ bỏ cả ngôi nhà mồ và cốt xác người đã chết chôn dưới mả đó cho
“rừng ăn”, dứt khoát không nhớ nhung, vướng bận gì với người chết nữa cả...
BỎ MẢ - một vĩnh biệt chung cuộc lớn lao như thế, đến
thế… thì phải thực hiện cho đúng với ý nghĩa trọng đại và đầy nhân văn của nó
chứ?!...
Cho nên, để bỏ mả, người ta phải mất cả tháng trời cất công
dựng lại nhà mồ, sao cho thật đẹp…. Quanh và trong nhà mồ đó, TƯỢNG MỒ là
“nhân vật” trung tâm, được tạc ra từ thân gỗ cây rừng và được dựng lên tại khu
nhà mồ. TƯỢNG MỒ gồm nhiều loại, có tượng hình người, có tượng hình vật…,mà
tâm điểm của các loại TƯỢNG MỒ là tượng tạc hình người, bằng rìu và rựa,
theo lối biểu trưng thôi, nhưng vẫn gợi tả cực kỳ sống động về cuộc đời thực,
mà người sống đang sống, mà người chết đã từng sống qua, cho đến khi phải mãi
mãi vĩnh biệt nhau hôm nay...
Bởi vậy, có thể nói, TƯỢNG MỒ chính là “nhân vật”
trung tâm của nhà mồ và của LỄ BỎ MẢ…
2. Thông điệp tư
tưởng nhân – sinh...
Bài thơ “tượng mồ” khắc họa khoảng khắc TƯỢNG
MỒ - hình tượng thơ trung tâm của bài thơ - buộc phải từ biệt thế giới CON
NGƯỜI, trong ánh hoàng hôn của một buổi chiều tà sau cuối, để đi vào miền miên
mãi …
Hãy nghe 2 câu mở đầu bài thơ về cuộc chia ly mặc khải này:
“Chiều như lửa đốt lòng nhau
tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người”
Có một câu hỏi, không dấu hỏi, như một khắc khoải vô biên của “tượng
mồ” cứ nhoi nhói mãi lên... Câu hỏi buông vào cả một chiều hoàng hôn sẫm đỏ…
trước một cuộc chia ly đã biết là mãi mãi… khiến lòng tôi đau thắt… “Chiều
như lửa đốt…” Câu thơ phác một nét tả thực, cái khoảng khắc hoàng hôn ánh
lên, cả một vầng sáng đỏ, trước lúc rồi sẽ chìm lấp hẳn sau cánh rừng xa... Sắc
đỏ tứa lên đó từ đâu?
Bạn nhớ luật tán sắc của ánh sáng chứ? Chính là nó đấy!
Chính là cái ánh sáng chiều hôm kia (nắng quái), đã tán sắc qua ẩm khí trên ngọn
rặng rừng xa, là cái ẩm khí vừa tích tụ được trong suốt một ngày nắng gió cao
nguyên, đang xông bốc lên… đã tạo ra… và hắt lên cái ánh sáng màulửa kia đấy…
Đúng vào cái khoảng khắc ma hồn ngời hắt lên sắc đỏ chia ly ấy, “tượng
mồ” đã “run rẩy” cất lên cái câu hỏi “về đâu kiếp người”…
Hẳn là “tượng mồ” không chỉ hỏi cho chính mình, mà
còn cho cả người còn sống nữa. Thực ra thì có lẽ câu hỏi ấy chắc đã nấu nung,
khắc khoải trong lòng “tượng mồ” từ lâu lắm rồi. Không thế thì không
thể khiến lòng “tượng mồ” nóng “như lửa đốt”, thân “tượng mồ”“run
rẩy” một niềm đau thương, tiếc nhớ đến nhường kia… “Chiều như lửa…”,
câu thơ thực cảnh; “… đốt lòng nhau”, chuyển sang thực trạng, và lại
kéo theo đó nữa là quan hệ người ở - người đi… khiến tôi thấy cứ hực mãi lên
trong lòng “tượng mồ”là cả một niềm khát khao, mong ước...
Nhưng không phải là mong cho qua, mà là ước cho nó đừng đến…
cái chiều chia xa miên mãi… này...
“Chiều như lửa đốt lòng nhau
tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người”
Hai câu thơ chỉ tập trung đặc tả một khoảng khắc thôi – đó
là ánh xế chiều, một hành động nhân vật thôi – đó là “tượng mồ”, một tâm
trạng thôi – đó là sự chia ly, một tình cảm thôi – đó là niềm tiếc thương…
nhưng nó gợi lên tất cả không gian, thời gian của tồn tại, mang tầm vũ trụ nhân
sinh của kiếp người, vẫn còn mãi đó, những luân hồi cuộc sống và cái chết, với
một câu hỏi “về đâu”, đến đâu…, sẽ không bao giờ tìm thấy lời đáp!...
Trở xuống, “tượng mồ” nhọc nhằn thê lương… thấp
cao thập thững… “đành lòng vậy, cầm lòng vậy”… bước…bước đi… những bước độc
thoại cuối cùng… vào hoàng hôn… mà ai cũng đều có thể nhìn thấy rất rõ… có biết
bao nỗi niềm trào lên… từ biết mấy nỗi lòng của “tượng…” !...
“đã đành hồn sẽ rong chơi
đã đành xác đã tơi bời gió sương
mà còn đây nỗi vấn vương
mà còn đây nhớ với thương một đời
nỗi đau khóc chẳng thành lời
lặn vào thớ gỗ ru người – người ơi”
Rồi đột nhiên, câu thơ lục bát đang giữ nhịp tự tình, độc
thoại, bỗng chuyển vần, phá cách:
“hoang sơ
chiều rót tràn vai
ché và chiêng
và đầy vơi rượu cần
nằm đây một nắm xương tàn
đứng đây tượng hát một ngàn lời yêu
chiều ơi chiều
chiều ơi chiều
cho tôi cùng hát tình yêu một đời”
Ấy là “tượng mồ” cho tôi biết thời gian của cuộc
tiễn đưa, đã đến sát vách ngăn cách cuối cùng, với thẳm sâu không gian của cuộc
đưa tiễn.
Bạn hãy đọc đi, đọc đi.. Hãy đọc những câu thơ trên bằng chất
giọng trầm thống nhất có thể, thì bạn sẽ nghe thấy điều tôi vừa nói.
Nhất là đọc cho được tiếng đồng vọng của hai câu thơ này:
“chiều ơi… …
chiều/…
chiều ơi… …
chiều/…”
Đó! Bạn nghe thấy gì chưa… nếu không phải là những tiếng gọi
nhau đồng vọng qua vách ánh đỏ chiều ngăn cách đang dần đổ xuống thì là gì?! Mà
ai gọi ai ở đây nữa nếu không phải là người đã chết, là “tượng mồ” đang
đi vào ánh chiều tà… nhưng vẫn mãi ngoái lại thao thiết gọi ta, những người còn
sống; là cả ta nữa, những người đang sống, dù đớn đau níu giữ “nhớ với thương một
đời”, vẫn không thể không xuôi tay thất thần buông bỏ…với chỉ còn giữ lại… là
ánh nhìn tình yêu của mình… đã vuột đi mất khỏi cuộc sống này…
Qua chiều sẽ là tối, là sự chết, người sống biết thế!...
Qua chiều sẽ là sáng, là sự sống, người chết biết thế!...
Chao ôi! Mặc khải “tượng mồ”!
Vâng! Đúng làMặc khải“tượng mồ”!
…Và… Cuối cùng thì nhân vật trữ tình của thi phẩm “tượng
mồ” cũng không thể ngồi yên bên ché rượu cần, khuất lấp đâu đó bên ngôi
nhà mồ được nữa.
Khúc tiễn đưa dù bi thiết nhất cũng đã qua rồi, phải đổi giọng,
chuyển nhịp, để cuộc sống lại tiếp tục cái trật tự muôn thuở của nó. Đúng lúc
này, thể thơ lục bát, với câu bát nhịp 2, lại trở lại làm câu kết bài thơ:
“cho tôi cùng hát tình yêu một đời”
3.Khúc khải ca mặc tưởng...
Giờ là lúc tôi muốn nói thêm, rằng mới đây tôi được biết,
Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai đã đưa bài thơ “tượng mồ” của nhà thơ
Văn Công Hùng vào giảng dạy cho sinh viên (thực ra là tỉnh GL chọn bài thơ này vào chương trình phần mềm
văn học địa phương của tỉnh, dạy cho học sinh cấp 2, và như thế đương nhiên các
sinh viên sư phạm phải được học để ra đi dạy- VCH) . Tôi nghĩ đó là một việc làm đúng, hay và rất tốt, bởi
cái thông điệp tư tưởng của bài thơ, chính là động cơ tôi muốn được góp lời
bình ở trên. Đến đây,tôi cho là theo cách của riêng mình, mỗi người đọc rất cần
và phải trả lời cho được câu hỏi “do đâu mà bài thơ “tượng mồ” đã tạo
ra được khúc khải ca mặc tưởng ấy?
Hãy hỏi, nhân vật trữ tình đó là ai? Và quan trọng hơn, đến
đây, là câu hỏi cần có câu trả lời xác đáng, để có xác tín, là vì sao đọc bài
thơ “tượng mồ” của Văn Công Hùng, tôi lại có thể có được cảm nhận thẩm
mỹ như đã trình bày ở trên !?
Xác tín là khi và chỉ khi nào ta chứng minh được “cơ sở
vật chất” (về hiện thực tồn sinh, là bỏ mả và Lễ Hội bỏ mả), để có cảm nhận
tinh thần, tình cảm (về hiện thực thơ) nói trên... thì người đọc bài này mới
“cóthể tin được” vì sao tôi gọi“tượng mồ”là một “khải ca mặc tưởng”.“Cơ sở
vật chất” nói đây chính là nói đến Lễ hội bỏ mả kia, chứ không phải
nói về ngôn ngữ, như là công cụ của Thơ, tức là bảochưa cần nói đến nghệ thuật
ngôn ngữ thơ,trong Thi pháp của nhà thơ. Vì bài thơ “tượng mồ” gần
như không dụng công cho nghệ thuật ngôn từ, thậm chí là cả về phá cách niêm luật
thơ, tức là về Thi pháp, mà cốt chú tâm vào tư tưởng nhân sinh.
Ở bài thơ “tượng mồ”, thông điệp tư tưởng nhân – sinh
mà bài thơ muốn chuyển tải đến độc giả là vấn đề cốt yếu. Thi pháp chuyển tải
quan điểm triết học nhân sinh của người Thượng mới thật nhân văn làm sao!
Để kết thúc bài viết này, tôi muốn bạn đọc biết thêm bài
thơ “Pơ thi” mà Văn Công Hùng đã đăng ngay sau bài “tượng mồ” trong
tập thơ nói trên:
Pơ thi
Chợt tan ra khoảng khắc hoàng hôn
dòng chiêng xoáy vào từng thân tượng gỗ
những bước chân giật lùi trên cỏ
tay trong tay hồn lại gặp tâm hồn
chẳng có gì là thật ở nơi đây
cũng chẳng có gì là ảo
tất cả cứ phơi ra như người ta phơi áo
ta lại gặp mình sau bao năm tháng cách xa
để rồi ngày mai lại phải chia xa
thì rượu ơi đêm nay đừng bao giờ cạn
cả ngọn lửa cũng đừng bao giờ tắt
đêm dài ra nối những tâm tình
có một đêm nay để ta gặp lại mình
kể hết đi những điều chưa biết
người đang sống nói với người đã chết
âm thanh chiêng công ngấm rượu ngả nghiêng
từng góc cạnh cuộc đời hiển hiện ở nơi đây
mọi sắc thái tâm tư lồng vào thớ gỗ
tượng mồ đứng lặng im mà dào lên sóng vỗ
nỗi đau lặn đi cho tuyệt tác phơi bày
Pơ thi – tôi gặp ở nơi này
nghệ thuật xoay nỗi đau vào trong ruột gỗ
để tài hoa của người cứ hiện lên rực rỡ
ở phía ngoài bức tượng trầm tư
Tháng 5.1986
L.X.L.
------
(1) Tôi đã đọc,
đã viết, cũng khá nhiều về thơ Văn Công Hùng. Đặc biệt quan tâm của tôi là nghệ
thuật thơ, phong cách thơ của nhà thơ này. Nhưng vẫn thấy còn cần phải chờ đợi
thêm ít lâu nữa, mới có thể đi đến khái luận về một phong cách thơ Văn Công
Hùng. Bằng chứng là vài năm trở lại đây, thơ Văn Công Hùng ngày một mới hơn, độc
đáo hơn, hay hơn nhiều... nên tôi chưa từng dám công bố gì ở đâu cả, những
bàn luận của tôi về thơ Văn Công Hùng. Ngay cả bài viết góp lời tham khảo với các
Thầy - Cô giáo giảng bài thơ “tượng mồ”này, tôi cũng viết rồi để đấy…
đến nay mới chuyển đăng,..., như một thư ngõ gửi các Thầy –Cô...,
như một ngỏ lờitri ân nhà thơ đã cho tôi đọc nhiều thi phẩm rất hay của
ông...
(2) TS. Ngô Văn Doanh
– LỄ HỘI BỎ MẢ BẮC TÂY NGUYÊN, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội-1995.
-----
Lấy từ website Văn Chương HCM, link gốc ở đây
Clip Nghệ sĩ Vương Hà thể hiện bài thơ Tượng Mồ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét