Một bài viết của Ths Đỗ Văn Minh về thơ nhà cháu. Mang về đây để lưu.
“rất khó tìm một đường để quay lại/ thì cứ thế mà nhẫn nại thôi/ đi như mộng du đời giương bẫy chuột/ đi như dò dẫm đêm đặc chông gai/ đi như người câm trưa choang choác nắng/ đi như thằng mù đường mòn dưới chân…/ những con đường giống nhau/ từng cái ngã tư từng cây cột số/ người như đàn kiến bò trong âm u/ người như con ngựa kéo xe đường dài/ ta như que diêm ta như ngọn gió/ ta là đám mây không rõ hình hài/ ta là cái cày cho con trâu kéo/ ta là con bò ngơ ngác ba toa/ những con đường khấp khểnh bờ đê/ tôi kẽo kẹt nhặt bông hoa gạo”
-------------
Du hành trong thi giới Văn Công Hùng
Đỗ Văn Minh[1]
Nói đến tác giả Văn Công Hùng, người ta thường nhắc đến ông với tư cách là nhà thơ và nhà báo. Ông sinh ra và lớn lên ở Thanh Hóa, quê Thừa Thiên Huế, tốt nghiệp cử nhân khoá 1, Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp (nay là Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế), sau đó lên Gia Lai nhận công tác tại Phòng Văn nghệ (Ty Văn hoá – Thông tin). Văn Công Hùng tham gia sáng tác văn học từ những thập niên 80 thế kỷ trước, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam,... Ông nguyên là Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Gia Lai và nguyên Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa VIII. Tác giả đã xuất bản 16 đầu sách gồm các thể loại: thơ, trường ca, tản văn, phóng sự, bút kí,... Có thể kể ra như: Bến đợi (thơ, 1992), Hát rong (thơ, 1999), Ngựa trắng bay về (trường ca, 2002), Hoa tường vi trong mưa (thơ, 2003), Mắt cao nguyên (tản văn và phóng sự, 2006), Gõ chiều vào bàn phím (2007), Lời vĩnh cửu (2007), Đêm không màu (2009), Lục bát Văn Công Hùng (2010), Vòm trời khác (2012), Cầm nhau mà đi (2016), Trong cơn mơ có thực (2019), Tây Nguyên trôi (bút ký, 2019), Chợt (thơ, 2021), Từ Tây Nguyên (văn xuôi, 2021), Nhặt chuyện văn nhân (chân dung văn học, 2021). Và, với phong cách sống lẫn quan niệm sáng tác đầy dấn thân, sáng tạo, dí dỏm, Văn Công Hùng đã đem đến dấu ấn quan trọng, khá đậm nét trong đời sống xã hội nói chung và trong dòng chảy văn chương Việt Nam hiện đại nói riêng, đặc biệt là ở mảng thơ ca.
Do vậy, du hành trong ngôn ngữ thơ của Văn Công Hùng chưa bao giờ thú vị đến thế. Một thứ văn bản văn học được hợp thành từ nhiều phong cách, chức năng, thể loại đan xen. Thi giới dưới ngòi bút sâu cay, điêu luyện của ông, nó được trình diễn bằng một thứ ngôn ngữ của ý thức kết hợp với những ý niệm/dự tưởng thường khởi lên từ vô thức. Trong quá trình của sự đọc và sự đọc sai [1, tr.185] đó, nó đã tạo ra vô số các giao điểm giữa văn bản/tiểu văn bản với các văn bản hữu danh hoặc vô danh khác. Bởi vậy, vấn đề về nghĩa và việc tạo nghĩa qua tác phẩm càng bấp bênh, khó đoán định, cho nên độc giả cần mở rộng biên độ tri nhận/thoả thuận trong tiếp nhận văn bản. Du hành trong ngôn ngữ thơ Văn Công Hùng là còn đến với những cảm xúc thẩm mĩ trong sự biến chuyển đầy thăng trầm, u ẩn ở từng bài thơ, có khi ngay trong chỉ một câu/dòng thơ! Đó có thể là tiếng nói của những mong mỏi, khát khao đẹp đẽ, cao thượng; cũng có thể là những điệu hồn bơ vơ, lạc lõng, trơ trọi của những nghiệm sinh mang cảm thức bất lực trên nẻo đường tìm kiếm sự hiện tồn, nhân vị. Du hành trong cõi thơ ấy, chúng ta có dịp suy nghiệm với trò chơi ngôn ngữ vừa gần gũi, nhịp nhàng vừa tít tắp, xa xăm, rợn ngợp. Trong phản ánh nghệ thuật (dùng theo thuật ngữ của Lukács Gyorgy) ấy, ngôn ngữ văn chương với bản thể tính độc lập, và như là một hữu thể, nó vượt qua những diễn giải thông thường để hướng đến “sự hoà trộn giữa tồn tại và ngôn ngữ trong nhau” [2, tr.106]. Thể hiện qua những khía cạnh dưới đây.
1. Du hành qua không gian và thời gian nghệ thuật mang dấu ấn cảm thức hiện sinh
Trong tâm thế đối thoại, chất vấn và tự chất vấn liên tục, “Đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của cuộc sống con người” (Mikhail Bakhtin) [2, tr.110], “động thái chất vấn các đại tự sự này được nêu bật như là đặc trưng quan trọng nhất của chủ nghĩa hậu hiện đại” [5] thì nhà thơ như oằn mình trước thời gian, chấp chới trong từng sát na thời khắc, nhà thơ trầm mình trong cô đơn, dằn vặt trước cung đàn muôn điệu của cuộc sống bủa vây. Thời gian nghệ thuật trong thi giới Văn Công Hùng biểu hiện rõ nhất những thương tật vĩnh viễn trước những rối bời, đau đáu của tâm thức và ý chí trong nhiễu nhương của cuộc đời. Thời gian không bằng phẳng, cũng chẳng lững lờ êm trôi mà đứt gãy, co giãn liên tục, như: “tháng 7 bạn không làm thơ nữa/ thơ đâu trả hết nợ đời/ cầm cố số phận mình trong khế ước/ khúc hát sông quê đắng chát nỗi niềm/ tháng 7 bạn bè từng chùm rụng/ mỗi sáng mai nhận một tin buồn/ những lảnh lót một thời giờ lờ đờ giá lạnh/ gặp nhau hỏi đang uống thuốc gì?/ tháng 7 tôi bay chuyến 6 giờ sáng về Pleiku/ thành phố hững hờ như mặt người kem trộn/ chiếc tắc xi màu xanh bông hoa màu đỏ/ dìm trong xám xịt sương mù/ tháng 7 như một cơn ngủ muộn/ vươn vai tóc đổ đẫm hè…” (Tháng 7), “những cơn mưa dường như đã bắt đầu chớm mệt/ góc phố vơi đi một chút ồn ào/ em như thể buổi trưa quá giấc/ mùa thu ngần ngừ nửa ở nửa đi” (Tháng chín Pleiku), “những người dân ngàn năm đã sống/ từng vạn năm quen thuộc đất đai mình/ chỉ không biết nơi sẽ thành huyệt mộ/ chính là nơi chân ta bước hàng ngày” (Những). Vì thế mà, bản thể văn chương của Văn Công Hùng là những khắc khoải, ám ảnh trước những khoảnh khắc của thời gian trên hành trình đi tìm nhân vị. Có khi lại mơ hồ, trống rỗng, phi lí đơn côi (ví như nội dung, tư tưởng của tác phẩm Ngoài phố, Những), hay có khi rơi vào bất định đến vô vọng, mang dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh đậm nét: “những con đường giống nhau/ từng cái ngã tư từng cây cột số/ người như đàn kiến bò trong âm u/ người như con ngựa kéo xe đường dài” (Cho ngày mười sáu tháng bảy), “những ký ức đã trở thành dang dở/ kỷ niệm rồi cũng tuột theo mưa/ từng cột nước trắng trời đêm không ngủ/ những kinh hoàng tuyệt vọng lỗ đen” (Những), cái cảm thức bị lạc, trôi, thả rông dường như chủ đạo trong nhiều thi phẩm của ông, “vuốt mãi bàn tay vẫn chẳng nghĩ của mình/ mái tóc cọng râu hôm nay cũng lạ/ tim vẫn đập mà như đang ngủ/ mà lại như trống dội thuở quân trường/ có những lúc tự thấy mình trẻ lại/ du dương như sóng biển bình minh/ cũng có bận thả trôi mặc xác/ rạo rực mà chi hoài vọng mà chi/ nhưng ngoài phố vẫn cái màu chói lọi/ áo đỏ ngợp đường tiếng guốc lao xao/ qua cửa sổ màu trời đương biếc gió/ vươn vai nào, lá vẫy phía người đi…” (Ngoài phố). Những dấu chấm lửng đặt ở cuối mỗi tác phẩm (Một buổi chiều tháng Bảy, Tháng 7, Trong cơn mưa Đà Nẵng, Cho ngày mười sáu tháng bảy, Ngoài phố, Gió đưa ngồng cải lên chùa, Tháng chín PleiKu, Những,…) như chính cảm thức của thi nhân trên chuyến tàu ngút ngàn điểm đến, giữa những hàng thông nhấp nhô tận cuối chân trời. Càng yêu và dấn thân vào cuộc sống này bao nhiêu thì nhà thơ càng thấu hiểu những được mất đầy may rủi, hạnh phúc trong nước mắt ngắn dài bấy nhiêu. Đó đều là những khoảnh khắc đáng trân quý của đời người. Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Tâm trong cuốn Những mảnh ghép của huyền thoại: “Niềm an ủi sau cùng của tồn tại, thật đau xót, lại chính là sự ngắn ngủi, mong manh của kiếp người” [9, tr.578]. Chính nhà thơ Trương Đăng Dung cũng từng nhấn mạnh điều trên: “Có ba chủ đề mang lại âm hưởng cơ bản cho thơ hiện đại, trở thành cảm thức nguồn, đó là cô đơn, khát vọng và khoảnh khắc” [3, tr.78-79], và thường là những khoảnh khắc hiện tại; còn với Văn Công Hùng là cả những nỗi niềm hiện tại và mong đợi chút gì ở tương lai, “phía sau cơn mưa có một chiếc lá/ vừa kịp run lên vẫy với vào chiều/ tối nay chung kết một mùa world cup/ thế là có việc để mà vui lên…” (Cho ngày mười sáu tháng bảy), “có một bóng mờ rất xa phía cây cầu ánh sáng” (Trong cơn mưa Đà Nẵng), hay “tối nay đợi ở gốc đa/ em cho ngồng cải để mà… muối dưa…” (Gió đưa ngồng cải lên chùa), “thì cũng hẹn nhau mà về/ tháng chín những xanh trong/ tháng chín từng hy vọng/ chỉ mong em đừng lỡ hẹn/ lời hứa xôn xao” (Tháng chín Pleiku), “bao đôi mắt đựng nỗi buồn thăm thẳm/ một âm dương tay với nghìn trùng/ thôi khép lại phận người dang dở/ ngóng tin bão tan…” (Những). Trên con đường chông chênh ấy, nhà thơ phải sử dụng khí giới của mình, ngôn từ độc đáo. Một thứ ngôn ngữ văn chương ngồn ngộn ngữ âm, ngữ nghĩa, cuồn cuộn con sóng của thông tin sự kiện. Chúng bò lúc nhúc, nó nhọn hoắt và sắc cạnh trên từng mặt giấy. Không phải thứ văn chương nhàn nhạt, nhờn nhợt, lãng mạn của kẻ lãng tử cuối mùa, chẳng hạn đoạn trích sau: “rất khó tìm một đường để quay lại/ thì cứ thế mà nhẫn nại thôi/ đi như mộng du đời giương bẫy chuột/ đi như dò dẫm đêm đặc chông gai/ đi như người câm trưa choang choác nắng/ đi như thằng mù đường mòn dưới chân…/ những con đường giống nhau/ từng cái ngã tư từng cây cột số/ người như đàn kiến bò trong âm u/ người như con ngựa kéo xe đường dài/ ta như que diêm ta như ngọn gió/ ta là đám mây không rõ hình hài/ ta là cái cày cho con trâu kéo/ ta là con bò ngơ ngác ba toa/ những con đường khấp khểnh bờ đê/ tôi kẽo kẹt nhặt bông hoa gạo” (Cho ngày mười sáu tháng bảy).
Có thể nói, thi giới của Văn Công Hùng là một cõi hỗn mang, sền sệt đến rùng mình, thắc thỏm. Thi nhân lạc bước trên con đường miên man, vô định bởi mọi thứ bày ra trước mắt cứ đục ngầu, chập chờn: “không hề bất ngờ/ Đà Nẵng đục ngầu sông Hàn cuối đêm thắc thỏm/ cơn mưa không vội/ bình thản tạt xiên vào ngơ ngác cột đèn/ em như một ký ức muộn/ lạc đâu đấy trong mưa/ chuông điện thoại lặng câm người mất ngủ/ Đà Nẵng đêm nhoài ra phía sóng chập chờn/ em thuốc thử lòng kiêu hãnh/ quán cà phê dương cầm vụt tắt/ đường Bạch Đằng chầm chậm khuya/ có một bóng mờ rất xa phía cây cầu ánh sáng” (Trong cơn mưa Đà Nẵng). Con người trong thoáng chốc trở nên ngơ ngác, bất lực, rơi vào trạng thái của tiềm/vô thức: “vuốt mãi bàn tay vẫn chẳng nghĩ của mình/ mái tóc cọng râu hôm nay cũng lạ/ tim vẫn đập mà như đang ngủ” (Ngoài phố). Rơi vào tiềm/vô thức, đó là một phần phản vệ trước những cú sốc quá lớn của hiện tồn cuộc sống. Những mâu thuẫn chất chồng không thể giải quyết bằng hành động sinh hoạt mà chỉ có thể thông qua hành động tâm thức/vô thức, đó là giữa sự chông chênh, vô vị trong cuộc sống và niềm đau đáu của sự hiện tồn. Khi ấy, sống mà như đã chết, con người hiện diện cảm thức thẩm mĩ cái-chết-đen. Như cái cảm giác bất tri sầu (không biết buồn) của người thiếu phụ trong Khuê oán của nhà thơ Vương Xương Linh, hay hành động vô thức của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm khúc được sáng tác bởi Đặng Trần Côn.
2. Du hành qua thi giới với ngôn ngữ thơ đầy tính liên văn bản
Trong liên văn bản thì “tính đối thoại đa thanh trong ngôn ngữ” [8] là dấu hiệu rõ ràng nhất. Một nhà thơ càng giàu chiêm nghiệm, không gian nghệ thuật co giãn/đứt gãy, thời gian đồng hiện, cách kể phi tuyến tính, hay tính đan xen/chồng lấn trong tư duy, biểu hiện ngữ nghĩa của ngôn ngữ thơ bao nhiêu thì tính liên văn bản đậm đặc bấy nhiêu. Trong thơ Văn Công Hùng, những âm thanh dồn ứ vọng về từ muôn nẻo, không gian nghệ thuật vì thế mà mang tính đối thoại, lô nhô, chen chúc, thay ngôi đổi thứ một cách nhanh chóng, chẳng hạn không gian và thời gian trong các đoạn trích sau: “tháng 7 những cơn mưa/ Sài Gòn xầm xì như mùa thu xứ Bắc” (Tháng 7), “giấc mơ đến vật nhau như mụ mị/ ơ buổi chiều lại cứ ngỡ đã khuya…” (Một buổi chiều tháng Bảy). Chìm đắm trong thi giới ấy gợi cho chúng ta biết bao nỗi niềm thương nhớ, chơi vơi, quằn quại những đau thương, lắm những u uẩn, cô đơn, trống rỗng qua hình ảnh quen thuộc và ám ảnh: “khúc hát sông quê đắng chát nỗi niềm” (Tháng 7). Cũng có khi tác giả mang đến cảm giác bất an, tiến thoái lưỡng nan qua hình ảnh mang tính biểu tượng và đa nghĩa, như: “một đường để quay lại” trong thi phẩm Cho ngày mười sáu tháng bảy. Hình ảnh con đường gian nan, mờ mịt lại có dịp hiện ra trong Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát; hay có khi đến bất lực, tuyệt vọng trong Hành lộ nan của Lý Bạch và Phản chiêu hồn của Nguyễn Du. Sau tất cả, để rồi trang thơ Văn Công Hùng lại hiện về một hình ảnh thân thương, đầy trìu mến và chất chứa biết bao trầm tích lịch sử - văn hoá Việt: “bờ đê”, nơi mà tâm hồn con người trở về nương nấu, chở che, tìm về nguồn cội. Hay có khi lẩn khuất sau bức tranh hiện thực ngoằn ngoèo kia là cả một vẻ đẹp tiềm ẩn đầy tinh tế, mượt mà và gợi cảm từ chất liệu ca dao trong văn học dân gian: “dải mây bừng lụa nõn” (Một buổi chiều tháng Bảy). Có thể nói, không gian trong thi giới của Văn Công Hùng là một mớ hỗn độn, dằng dặc như cảm/tâm thức con người của nhà thơ trong việc tri nhận và diễn ngôn thực tại. Cái cảm thức mông lung, mụ mị, nửa hư nửa thực đã gói trọn phận người trong đời sống hiện đại, “giấc mơ đến vật nhau như mụ mị/ ơ buổi chiều lại cứ ngỡ đã khuya…” (Một buổi chiều tháng Bảy). Và, khi đọc thơ ông, thi pháp ấy đã đạt đến độ tự nhiên, như nhất bởi ngôn từ không gò ép, ý tứ chẳng khuôn mòn, phong cách và chức năng ngôn ngữ nhuần nhị, sự hoà điệu giữa ý thức và vô thức trong sáng tạo văn chương, bút pháp hiện thực và trữ tình đan cài ngẫu hợp. Để sáng tạo thành công như kể trên, nhà thơ tất nhiên đã thấu triệt, ý thức rõ ràng rằng, “mọi văn bản đều là liên văn bản đối với một văn bản khác” và “bất cứ văn bản nào cũng được tạo nên như một bức tranh khảm chứa đựng cả một thiên hà các trích dẫn” [8]. Trong ngôn ngữ thơ ấy, tính liên văn bản cũng được nhận ra thông qua những diễn ngôn bằng mô phỏng (bắt chước, imitation), biếm phỏng (parody) và sự ám chỉ (allusion), như các hình ảnh đầy tính biểu tượng, đa nghĩa sau: “dải mây bừng lụa nõn” (Một buổi chiều tháng Bảy), “em cho ngồng cải để mà… muối dưa…” (Gió đưa ngồng cải lên chùa), “một đường để quay lại” (Cho ngày mười sáu tháng bảy), “khúc hát sông quê đắng chát nỗi niềm” (Tháng 7),…
Ngoài ra, tính biểu/hình tượng đa nghĩa cũng một phần giúp độc giả nhận ra sự lắng đọng của không gian, sự dồn nén/đồng hiện của thời gian, lẫn cả sự bấp bênh về nghĩa và sự tạo nghĩa trong ngôn ngữ thơ. Chẳng hạn, nói đến hình ảnh “chùm rụng” trong thi phẩm Tháng 7 là gợi nhắc đến sự vô thường, biến chuyển của cuộc đời và tấm lòng thiết tha, ngọt ngào của người con dành cho mẹ qua ngữ nghĩa được toát ra từ bài ca dao sau: “Mẹ già như chuối ba hương/ Như xôi nếp mật, như đường mía lau/ Đường mía lau càng lâu càng ngát/ Cơm nếp mật ngào ngạt hương say/ Ba hương lây lất tháng ngày/ Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi/ Mẹ già như áng mây trôi/ Như sương trên cỏ, như lời hát ru/ Lời hát ru vi vu trong gió/ Sương trên cỏ khó vỡ dễ tan/ Mây trôi lãng đãng trên ngàn/ Gió đưa tan, hợp, hợp, tan, nao lòng.”. Hay khi đọc bài Gió đưa ngồng cải lên chùa thì người đọc không thể không liên hệ đến câu chuyện bi thương, đắng lòng trước tình mẫu tử thiêng liêng của bà Phi Yến (tên tục là Lê Thị Răm) và hoàng tử Hội An (tên tục là hoàng tử Cải), từ câu chuyện lịch sử ấy mà đã phát tích nên câu ca dao: "Gió đưa cây Cải về trời/ Rau Răm ở lại chịu đời đắng cay” [4]. Và như thế, trong một thi giới đầy ám ảnh, bất an gợi lên từ một kí ức, dự tưởng sền sệt, hoang mang thì hình ảnh thơ mang vẻ đẹp văn hoá truyền thống, xuất phát từ hệ tư tưởng triết lí nhà Phật, đó là hoa sen trong Một buổi chiều tháng Bảy lại gửi gắm nhiều thông điệp về cuộc sống: ý thức tự do, giải thoát, hiện tồn. Nhà thơ càng khắc khoải, suy nghiệm bao nhiêu càng thể hiện bản thể tính trong văn chương sâu sắc bấy nhiêu. Du hành trong mô hình thế giới nghệ thuật qua ngôn ngữ đầy tính liên văn bản ấy, nhà thơ họ Văn đã vận dụng linh hoạt những hình ảnh, biểu tượng để ước lệ/tượng trưng cho cuộc đời ảo vọng, vô thường, biến chuyển; hay đem đến một cảm giác tù túng, quẩn quanh đang bủa vây và bóp nghẹt Con Người (với nội hàm ý nghĩa theo quan điểm của chủ nghĩa hiện sinh). Hình tượng khuôn-mặt-cuộc-đời là một trong số đó, nó được lặp lại, nhấn nhá ở nhiều tác phẩm, tạo nên một kiểu/dạng mô típ có tính hệ thống, như: “thành phố hững hờ như mặt người kem trộn/ chiếc tắc xi màu xanh bông hoa màu đỏ/ dìm trong xám xịt sương mù” (Tháng 7), “Đà Nẵng đêm nhoài ra phía sóng chập chờn/ em thuốc thử lòng kiêu hãnh/ quán cà phê dương cầm vụt tắt/ đường Bạch Đằng chầm chậm khuya/ có một bóng mờ rất xa phía cây cầu ánh sáng/ bây giờ là lúc anh nhớ nhất/ nụ hồng đêm nào không mưa/ bây giờ muốn hình dung nhất/ khuôn mặt em từ Đà Nẵng sông Hàn…” (Trong cơn mưa Đà Nẵng). Ngoài ra, hình tượng bước-chân-thời-gian cũng hiện lên dày đặc trong những vần thơ của ông như chính phận người dang dở, mỏi mòn trên hành trình tìm kiếm, khẳng định chân giá trị. Ta không khó để bắt gặp những dấu vết của bước-chân-thời-gian nghiệt ngã, ám ảnh, và ấn tượng đó qua áng thơ giàu biểu cảm và chất tự sự, chẳng hạn là: “mỗi sáng mai nhận một tin buồn/ những lảnh lót một thời giờ lờ đờ giá lạnh” (Tháng 7), “có những lúc tự thấy mình trẻ lại/ du dương như sóng biển bình minh/ cũng có bận thả trôi mặc xác/ rạo rực mà chi hoài vọng mà chi” (Ngoài phố).
Tính liên văn bản trong ngôn ngữ thơ ông còn được biểu hiện qua giọng điệu đầy chất giễu nhại, bỡn cợt pha chút chất vấn, tự trào. Nhà thơ như gượng cười để khoả khuây trước cuộc sống đầy bất an, bất ổn. Một thế giới hỗn tạp về thông tin và lạc lõng của phẩm giá. Nhân vật trữ tình vì thế mà cảm nhận rõ những đắng cay trong hành trình đi tìm ý nghĩa của sự tồn tại người. Để thể nghiệm cảm thức trên, nhà thơ phối kết sử dụng các hình thái, chức năng và phong cách ngôn ngữ, mà rõ nét nhất là sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương với ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ sinh hoạt. Cho nên, bên cạnh những biểu/hình tượng đa nghĩa là những trang thông tin được cập nhật nóng hổi và cả những ngôn từ mang hơi thở bình dân được đưa vào tác phẩm với dung lượng tương đối lớn. Chính cái pốp, piếc [6, tr.12] mang khẩu khí đại chúng, phàm tục đó khi hoà quyện vào phong vị của văn học cao sang mới tạo nên sức hấp dẫn, khó cưỡng trong thơ anh, như: “cái lưng xinh thôi rồi, cái áo cũng chả thua” (Tháng 7), “bao nhiêu vòng quay bao nhiêu mùa tết/ vừa kịp nhận ra mình chả kịp gì” (Cho ngày mười sáu tháng bảy), “mà cơm nắm muối vừng quên sao được nhỉ”, “ơ buổi chiều lại cứ ngỡ đã khuya…” (Một buổi chiều tháng Bảy), “mùa thu ngần ngừ nửa ở nửa đi” (Tháng chín Pleiku).
Thật vậy, “đằng sau sự sâu lắng và cái hệ thống hình thức có vẻ ổn định của ngôn ngữ ẩn dấu những thay đổi, những dự báo và cả sự hỗn loạn” [2, tr.111], nhà thơ Văn Công Hùng với bút pháp trữ tình, đằm thắm, giàu chất suy tư, chiêm nghiệm đã khơi nguồn cảm xúc dường như bất tận, khi anh đứng trước những tình huống và dự tưởng hiện sinh. Đọc thơ anh, ta mường tượng ra một hồn thơ đa cảm, nhiều dư vị cuộc sống, và sự hào sảng của tình nhân ái, vị tha.
Hơn nữa, trong lý thuyết tiếp nhận văn học hậu hiện đại, mọi sự diễn ngôn của nhà thơ trước hiện thực (tất nhiên ở trạng thái dang dở và mở, như quan điểm của Ernst Fischer) dường như chênh vênh, rời rạc và phân mảnh. Mỗi mảnh ghép lại được sắp xếp, tái cấu trúc, tái sáng tạo theo từng chủ ý của người tiếp nhận trên tinh thần về nghĩa và việc tạo nghĩa của ngôn ngữ văn chương. Nhưng dù ở một phương diện, chiều kích tạo nghĩa nào thì thi giới Văn Công Hùng cũng đem đến chút lạc quan, niềm hạnh phúc trong từng trạng huống nhân sinh mang nỗi đắn đo, trăn trở và trầm tư.
Đ.V.M
Tài liệu tham khảo:
1. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. Trương Đăng Dung (2018), Phản ánh nghệ thuật trong mỹ học của Lukács Gyorgy, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Trương Đăng Dung (2020), Em là nơi anh tị nạn, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
4. Bình Giang (28/12/2019), Về nơi khởi nguồn câu ca "Gió đưa cây cải về trời", trên https://www.baohoabinh.com.vn/276/136536/Ve-noi-khoi-nguon-cau-ca-Gio-dua-cay-cai-ve-troi.htm
5. Trần Ngọc Hiếu (10/2021), “Chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI: diện mạo và tác động”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 10 (596), tr.77-91.
6. Sông Hương (2013), Sông Hương – Nghiên cứu, lý luận và phê bình, Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế.
7. Lê Thị Hường (26/6/2024), Cái chết như một khoái cảm thẩm mĩ, trên https://vanvn.vn/cai-chet-nhu-mot-khoai-cam-tham-mi/
8. Trần Phượng Linh (2013), Khảo sát hiện tượng liên văn bản trong tập truyện Lời tiên tri của giọt sương của Nhật Chiêu, Khóa luận Tốt nghiệp, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH&NV Tp.HCM.
9. Nguyễn Thanh Tâm (2024), Những mảnh ghép của huyền thoại, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
---------
Các báo đã đăng:
[1] ThS., Hội viên Hội VHNT Gia Lai, SĐT: 0355759895, STK: 6240178515 (BIDV Chư Sê), Email: minhdovan1986@gmail.com, ĐC: Thôn Hòa Hiệp, Thị trấn Nhơn Hòa, Huyện Chư Pưh, Tỉnh Gia Lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét