Tôi
mới đọc lại một số tài liệu về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổi tiếng thuở nào, với
rất nhiều lời ngợi ca tài quân sự của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, thậm chí có ý
kiến của học giả còn so sánh Nguyễn Huệ với... Napoleol, và nghe không phải
không có lý, bởi trên thế giới hiếm có ông tướng nào đánh đâu thắng đấy, thắng
như chẻ tre thế, đa phần là tiến nhanh đánh nhanh, đánh mà chưa hiểu rõ địch,
đánh trong thế hành tiến quân mỏi tướng mệt, phải 3 người một cáng, phải “phát
minh” ra món bánh tráng để làm lương khô vừa đi vừa ăn trên đường...
Nhưng
tôi lại cũng chú ý đến phần đầu của cuộc khởi nghĩa ấy, cái thuở 3 anh em nhà
Tây Sơn, hồi này còn gắn bó, còn nhất cử nhất động theo lời anh cả Nguyễn Nhạc,
từ vùng Tây Sơn hạ đạo, lên An Khê lập “chiến khu” dấy binh khởi nghĩa.
Mới
đây nhất, năm ngoái, các nhà khảo cổ Nga đã phát hiện ra một việc chấn động giới
khảo cổ quốc tế, ấy là tìm ra ở di chỉ Rộc Tưng, An Khê dấu tích sinh sống của
người tối cổ, có niên đại chừng hơn 80 vạn năm, và lập tức nơi đây trở thành
nơi xuất hiện sớm nhất dấu tích loài người chứ không phải mấy di chỉ khác như
Đông Sơn, Núi Đọ, Sa Huỳnh, và giới khảo cổ quốc tế cũng đã phải “vẽ lại” bản đồ
xuất hiện loài người, nó không phải là còn xa tít mù tắp ở đâu nữa, mà ở ngay
lưu vực sông Ba, An Khê, Việt Nam.
Vấn
đề là, anh em nhà Nguyễn Nhạc cũng chọn xứ này dấy binh.
Phải
chăng, bằng thiên nhãn của mình, họ cũng như những người tối cổ kia, phát hiện
ra An Khê là địa linh, 80 vạn năm trước, cụ kị cu ki của chúng ta chọn đây là
nơi sinh sống, và giờ, Tây Sơn tam kiệt chọn đây để luyện quân, mở đầu cuộc khởi
nghĩa.
Thời
ấy giao thông chưa có, từ đồng bằng nhìn lên, Trường Sơn bí ẩn trầm mặc với mịt
mù những điều chưa ai biết. Thế mà, Nguyễn Nhạc, với tư thế người buôn trầu, đã
len hỏi hàng năm trời, nhích từng bước một, để lên tới An Khê. Không chỉ lên tới,
mà còn phải bắt bạn với những người dân ở đây, toàn bộ là người Bahnar, trở
thành người nhà của họ, rồi dẫn các em mình lên, lập nên vùng chiến khu rộng lớn
và hiểm trở, chiêu mộ binh lính, tích lũy lương thực vũ khí, qua mặt chính quyền.
Nguyễn
Nhạc chính là linh hồn của thời kỳ đầu này.
Sau
này người ta gọi đây là cuộc khởi nghĩa nông dân, nhưng thực ra, anh em nhà
Nguyễn Nhạc không hẳn là... nông dân.
Ông
Nguyễn Nhạc là nhà kinh doanh, được gọi là ông Hai trầu vì ông làm nghề buôn trầu.
Ngoài ra ông còn được chính quyền “tin tưởng” giao giữ thuế, tức là người biết
tính toán, biết các con số. Có thông tin là ông còn dùng toàn bộ tiền thuế này
chi cho cuộc khởi nghĩa cho đến khi bị phát hiện thì công khai nổi dậy. Nguyễn
Lữ là một tăng lữ, thuộc giới có chữ, còn Nguyễn Huệ không nghe nói học gì,
nhưng có nhà nghiên cứu cho rằng, với những gì thuộc về văn bản ông để lại cho
đến giờ, thì những lập luận của ông vừa sâu sắc vừa vững bền vừa hợp lý, chặt
chẽ hơn nhiều... cán bộ ta đầy chữ bây giờ.
Ông
Nguyễn Nhạc đã làm được việc rất lớn mà giờ chúng ta đang cố sức làm là đoàn kết
kinh thượng. Ông làm được, rất nhuần nhuyễn, biến cả vùng này thành đất thành
vùng của ông, mà việc đầu tiên là ông cưới Yă (bà) Đố, một người phụ nữ Bahnar
rất giỏi việc quân lương. Bà này sau đấy vừa chỉ huy luyện voi (là nghe đồn thế
chứ hiện nay vẫn chưa tìm ra bãi luyện voi ở An Khê nếu như đúng nơi đây từng
là chiến khu của... voi, bởi nếu từng có bãi luyện voi hàng trăm con thì chí ít
ngoài cái bãi ấy còn phải có những di tích xương voi chẳng hạn, nhưng đội quân
voi trong đội hình chiến đấu của quân Tây Sơn là có thật). Ngoài việc xả thân với
họ, anh em cật ruột thật sự với họ, chia ngọt sẻ bùi với họ... Nguyễn Nhạc còn
“sáng tác” ra nhiều giai thoại để người dân ở đây hiểu rằng, ông được Yàng cử
xuống cùng với họ khởi nghĩa, và rằng là, ông với họ là anh em một nhà, mà anh
em thì phải sống chết với nhau. Viết đến đây lại nhớ chi tiết khởi nghĩa Lam
Sơn có những cái lá được bôi mật để kiến ăn thành chữ “Lê Lợi vi quân...” khiến
dân tình cứ thế nườm nượp theo khởi nghĩa.
Giờ
ở An Khê, tức di tích lịch sử Tây Sơn thượng đạo (ứng với Tây Sơn hạ đạo là nơi
phát tích của 3 anh em nhà Tây Sơn, dù gốc nhà này là họ Hồ Nghệ An), vẫn còn
những địa danh mang tên riêng gắn với họ như đồng cô Hầu (hầu, có thể là cách gọi
người xưa với vợ không chính thất, cách đây hơn chục năm vẫn còn có nơi gọi vợ
sau là hầu), như núi ông Nhạc, ông Bình (tên thật của Nguyễn Huệ).
Và
An Khê Tây Sơn thượng đạo không chỉ thế.
Nó
nguyên thủy là một cái làng nằm giữa 2 con đèo An Khê và Mang. Những người Kinh
đầu tiên lên đây có thể là anh em Nguyễn Nhạc, rồi đến những người Kinh theo 3
anh em nhà này, cứ thế họ lập làng sinh sống, và cuộc hòa huyết hôn nhân đầu
tiên giữa Kinh và Bahnar có thể là giữa Nguyễn Nhạc và Yă Đố. Nhưng không chỉ
người Kinh, len lỏi âm thầm giữa rừng già thâm u thuở ấy còn những người Chăm xứ
Chà Bàn Bình Định, ngược sang Camphuchia (hay là Campuchia ngược lại?). Giờ người
ta đang lần lượt phát hiện những dấu tích Chăm trên con đường bí ẩn một thời
này. Ấy là những tháp Chăm, dấu tích Chăm ở Đăk Pơ, Ayun Pa, ở nhiều nơi nữa.
Nó chính là dấu tích của con đường Chăm ngày xưa, ngay bên Natarakiri cũng có
tháp Chăm, và con đường này kéo tới các Ang Ko bên Camphuchia, hành trình Chăm
là như thế. Và các nhà nghiên cứu cho rằng, như vậy, An Khê không phải là vùng
đất nghèo, mà nó từng giàu, rất giàu. Có giàu mới có người lên buôn (ông Nguyễn
Nhạc lên buôn trầu) và rồi từ đấy chọn làm đất dấy binh. Có giàu thì người
Chăm, trong hành trình di chuyển của mình, mới dừng lại xây tháp xây đền. Các
nhà nghiên cứu cũng cho rằng, bao giờ bên cạnh trung tâm tôn giáo cũng là trung
tâm kinh tế. Từng là trung tâm tôn giáo của người Chăm thì đồng nghĩa nó cũng
là trung tâm kinh tế.
Ơ
thế thì An Khê đúng là địa linh, để những nhân kiệt khắp nơi đổ về, mà những
nhân kiệt nhất chính là các cụ người tối cổ của chúng tư từng tề tựu ở đây 80 vạn
năm trước, rồi đến Tây Sơn tam kiệt, rồi những người Chăm vô danh giờ hữu danh
từ những nền phế tháp.
Và trong những “nhân kiệt” ấy ta
thấy rõ thêm cái tài của ông vua trầu Nguyễn Nhạc. Chính ông là người đầu tiên
của thế hệ người Kinh sau này phát hiện ra vùng đất An Khê, là người có công lớn
nhất biến nơi đây thành căn cứ địa, thành chiến khu những ngày đầu dấy binh, là
người đặt nền móng cho mối quan hệ Kinh Thượng khắng khít, để rồi sau đấy trong
lịch sử nước Nam xuất hiện một thiên tài Quang Trung Nguyễn Huệ, một vị tướng
chỉ huy trận nào thắng trận ấy, một vị vua có nhiều cải cách dù mất rất sớm
nhưng vẫn lẫy lừng trong sử Việt ở cả tài trị nước và tài thu phục nhân tâm...
(Báo Quân đội Nhân dân cuối tuần số Tết Kỷ hợi, khi in "được" đổi tít và cắt một ít, bản full ở đây)
1 nhận xét:
Bài viết này rất hay song có hai y . Một là, có địa danh dân sinh sống ở Tủ Thủy gọi là bầu Bà Lâm bầu Voi nằm cách cánh đồng cô hầu_ vườn mít về phía đông bắc chừng vài km. Nên chăn phân tích việc Nguyễn Nhạc cưới hỏi vợ là bà gia Đố trong văn hóa mẫu hệ của người ba na và Nguyễn Nhạc là một người trai thời phong kiến thì phải cưới vợ môn đăng hộ đối chứ sao lại i cưới vợ là người ba na... người bình thường không làm được. Từ đó kết luận Nguyễn Nhạc là một nhà chính trị lớn. Có cơ sở vì Nguyễn Nhạc là con cháu chính tông của Hồ Quý Ly người được sử ghi danh.
Đăng nhận xét