Tôi thật, chả
nghĩ mình lại cũng là... Nghệ nhân.
Lý
lịch của tôi từ xưa đến nay ghi: Quê cha Thừa Thiên Huế, quê mẹ Ninh Bình, sinh
ra lớn lên và học phổ thông ở thành phố Thanh Hóa, học đại học ở Huế và giờ ở...
Pleiku, tiệt chả có chút liên quan gì tới Nghệ.
Hồi
nhỏ ở Thanh Hóa thì chỉ biết tàu hỏa đến Vinh là hết đường. Quảng Bình, Vĩnh
Linh là một địa danh nào đấy hết sức xa vời bí ẩn, hun hút như một... thế giới
khác. Nhà tôi ngay bên đường tàu, nên mơ ước lúc nào được leo lên tàu đến tận
ga cuối cùng của phía Nam luôn là sự thôi thúc mà mãi chả thực hiện được. Toàn
lên tàu là ra phía Bắc.
Rồi
sau năm 75 thì ước mơ của tôi hiện thực. Từ Thanh Hóa ba con tôi đã đi tàu vào
ga Vinh ở gần... 1 tuần để có thể mua được vé xe khách liên vận về Huế. Cuộc chờ
đợi mua vé xe khổ ải trần ai mà ai đã từng qua thì chắc chắn không thể quên thời
ấy, khiến tôi, cậu bé vừa tốt nghiệp cấp 3 có cái nhìn kỹ hơn về Vinh.
Rằng
té ra, Vinh cũng... hiện đại dẫu cái ga và cả bến xe Vinh thời ấy thì nó là một
sự hỗn độn khổng lồ với nghìn nghịt người suốt 24/24 giờ, mùi mồ hôi, nước cống
và chất thải từ con người, tiếng la hét mất cắp, đuổi nhau, đánh nhau, tiếng
loa, tiếng còi công an liên tục khiến con người trong trạng thái căng thẳng, cảnh
giác và tạm bợ. Thì biết đâu, trước đấy vừa nghe nó là nơi tận cùng tàu hỏa, rồi
lại bị bom Mỹ hủy diệt chẳng còn gì, thì cứ nghĩ nó như nơi... thâm sơn cùng cốc.
Nhưng té ra nó cũng như... thị xã Thanh Hóa nơi tôi sống. Chưa hết, con gái
Vinh rất đẹp. Cái trí tưởng tượng của gã trai đang trổ giò giúp tôi có vẻ phóng
khoáng hơn trong cái nhìn về những cô gái cùng trang lứa mà tôi gặp ở ga Vinh.
Một buổi chiều, ba tôi bảo, ăn bậy vừa xót ruột vừa tốn tiền, con vào nhà ai đấy
nấu nhờ cơm rồi mang ra đây ba con ta ăn.
Tôi
cầm 2 bò gạo gói trong cái khăn mùi xoa, cứ men theo đường tàu mà đi, một đoạn
thì gặp một ngôi nhà, đèn dầu lờ mờ. Vào, chào rất to thì cô chủ nhà xuất hiện.
Tôi trình bày lý do, hoàn cảnh, mục đích ý nghĩa... sau mấy phút dò xét thì cô
bảo: vào bếp mà nấu.
Nhà
chỉ 2 anh em trai nên việc nấu cơm của tôi chỉ là dễ như... rửa tay. Rất nhanh
thì nồi cơm đã chín, đang loay hoay giữa việc lại gói cơm vào khăn mang về hay
xin giấy báo thì... cô con gái chủ nhà xuất hiện.
Không
hoạt bát nhanh nhảu như con gái bây giờ đâu. Bạn này e lệ ấp úng mặt đỏ tưng bừng
rồi nói, nắm lại mà mang về. Ừ nhỉ. Tôi giặt khăn mùi xoa định dùng nó để nắm
thì cô này lại bảo: Có mo cau đấy. Thú thật là, thi thoảng tôi có nắm cơm nhưng
bằng khăn mặt, chứ mo cau thì chưa từng. Tất nhiên là lóng lóng, từ cái cách rửa
mo cau cho nó mềm và sạch, thế là cô bé... xắn tay.
Đấy
là cái thứ tiếng Nghệ mà tôi nghe ngọt nhất cho tới lúc này, dù nói thật có nhiều
câu tôi... không hiểu. Mà cái hơi thở cũng nhẹ, cái sợi tóc mai hơi bết mồ hôi
cũng như run lên. Cái chiều sâm sẫm Vinh ấy, đến giờ tôi cũng vẫn... ước được
trở lại. Giờ vẫn nhớ, cô ấy học sau tôi một lớp...
Sau
này học đại học ở Huế, gặp nhiều... Nghệ nhân. Ra trường đi làm, cũng gặp Nghệ
nhân, rất nhiều Nghệ nhân. Ở đâu có Nghệ nhân ở đấy tưng bừng ngay, biết ngay,
không lẫn, một “đặc sản” Nghệ vừa tự tôn vừa bảo thủ, vừa tự tin vừa chiếm
lĩnh, vừa thô vừa ráp, vừa ngang vừa... nhọn.
Tôi
cũng chơi với mấy Nghệ nhân.
Ông
nhà văn Phạm Đức Long quê Yên Thành. Nghe nói hồi ở quê khổ lắm. Bố nguyên là
chủ tịch xã mà nhà rất khổ, vì ông này rất trong sáng. Sau này ông con cũng
trong sáng đến khổ hạnh như thế. Học đại học Nông nghiệp, ra trường lên Gia Lai
nhận công tác. Chờ cả tháng mùa mưa, buồn quá, chả biết làm gì bèn... làm thơ.
Thế mà rồi giờ có hơn 10 đầu sách, trở thành Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam. Về
ngạch công chức là chi cục trưởng chi cục phát triển nông thôn Gia Lai, một hàm
quan không nhỏ, một cái ghế nhiều người mong. Nhưng còn 3 năm mới tới tuổi hưu
thì đùng đùng xin về hưu trước tuổi.
Ngoài viết văn và làm chi cục trưởng, ông này rất mê sáng tạo, từ làm
máy ấp trứng gà vịt ngan ngỗng các loại, giờ mỗi ngày ấp hàng mấy nghìn trứng
cho thiên hạ, còn sáng chế ra thuốc chữa và phòng dịch gia cầm bằng lá cây vân
vân...
Ở
Đăk Lăk có ông Văn Thanh, nguyên là giáo viên tiếng Trung từ Nghệ An vào Buôn
Ma Thuột mần... thơ. Khác ông Long, ông này gàn và ngang... bát sách. Ông có
hai câu thơ nổi tiếng về Biển Hồ ở Pleiku nơi tôi sống: “Thương thương quá suốt
một đời thiếu nước/ nên cái ao tù cũng thành biển của em”. Thật, chỉ có một kẻ
hết sức gai góc, có cái nhìn... không thuận, mới phát hiện ra điều ấy. Tôi phục
ông ở sự thông minh ấy.
Lần
đầu tiên tôi gặp ông Văn Như Cương là tại một cuộc... nhậu. Tôi rón rén lại làm
quen, ông cười rung râu trắng, tôi biết ông mà. Uống bia, ông bảo rót vào
cái... tô cho ông. Tôi tròn mắt, ông bảo uống đọi thế mới sướng. Sau này thân
nhau, tôi biết thêm một tính cách Nghệ sống giữa thủ đô. Có cái gàn nhưng chừng
mực, cái liều nhưng chỉn chu, cái sóng gió nhưng khẽ lặng. Ông là một trong rất
ít người Nghệ nói rất nhẹ, kể cả trong cuộc nhậu, ông cũng nói rất khẽ, chân
tay cũng ít... vung. Chuyện “ Heo nuôi giáo sư Văn Như Cương” và bộ râu của ông
đã thành giai thoại và huyền thoại. Ở ông, có vẻ như, sự bảo thủ và hòa tan
luôn luôn nhấp nháy để tạo nên một Văn Như Cương rất Nghệ nhưng lại cũng rất Việt.
Mệt nhất là chơi
với ông Lê Huy Mậu. Ông này là một thương hiệu... Nghệ, tất nhiên là phải có
thêm ông Tạo, Nguyễn Trọng Tạo, hai người làm nên bài... Nghệ ca nổi tiếng
“Khúc hát sông quê”.
Một lần tôi ra
Hà Nội họp, mượn được cái ô tô, tôi rủ ông Lê Huy Mậu về Thanh Hóa chơi, nơi
ngày xưa tôi sơ tán, rồi mấy chục năm chưa trở lại. Báo tin trước với bạn bè và
người quen ở đấy, họ chuẩn bị đón tôi rất chân tình và linh đình. Bạn học cũ được
triệu về, bí thư xã ấy cũng được mời đến. Khi vào, sau màn ôm nhau cảm động giữa
các bạn với tôi thì tôi giới thiệu: Nhà thơ Lê Huy Mậu, tác giả lời “Khúc hát
sông quê”, thế là ngay lập tức tôi thành... người thừa. Mọi người vây lấy Mậu,
năm bảy người rút điện thoại ra mở chứng minh là, chuông điện thoại của mình
cài “Khúc hát sông quê”, có người gọi điện thoại khoe đang được ngồi với Khúc
hát sông quê. Và rồi cứ thế... quá nửa đời phiêu bạt cứ bát ngát suốt cuộc gặp,
cả trong điện thoại lẫn lai vờ...
Nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo là người viết giới thiệu tập thơ đầu tiên của tôi khi ông chưa... đọc
nó, mà khi sách in ra xong, đọc lại thì ông bảo, thế té ra tớ viết bằng... linh
cảm mà đúng nhé. Tôi là đàn em, kính trọng ông anh từ... xa, nhưng lại luôn được
ông xông đến gần. Ông rất thích đến nhà tôi để “bắt Yến hầu”. Yến là tên vợ
tôi. Nếu chọn ra một người có khả năng “ngồi” lì nhất Việt Nam, thậm chí là cả...
thế giới, thì phải kể ngay tới ông Tạo. Ông Tạo có thể ngồi từ... sáng tới chiều.
Rồi lại “dọn mình” ngồi tiếp từ chiều tới... sáng. Nhà tôi ở Pleiku đã đón ông
vài cuộc như thế. Những người xung quanh như tôi, Nguyễn Thụy Kha... đã gà gật
hoặc gục hẳn thì ông vẫn vững như bàn thạch. Ông là Nghệ nhân thứ thiệt. Mới
đây bị đột quỵ, cả tỉnh Nghệ An lo cho ông, lo thiết thực, cụ thể, chứ không chỉ
lo như khán giả, bạn đọc với nhạc sĩ nhà thơ mình yêu quý. Chừng nửa năm, như một
sự thần kỳ, ông bình phục, lại bát ngát các cuộc, tất nhiên cầm ly... nước. Và
sau đấy gần năm, ông lại bạo một bệnh khác. Nhưng vẫn thấy ảnh ông trên
facebook, vẫn thấy ông đong đưa chỗ này chỗ kia. Đời mà, lạc quan mà sống chứ.
Hình như chưa bao giờ thấy ông Tạo bi quan, “ngài” Nghệ hắn rứa...
Nhưng rồi, ông
đã không cưỡng nổi số mệnh. Trước tết này hơn tháng, ông đã về miền mây trắng,
thọ 72 tuổi. Và, có thể nói là, chưa có đám tang nào kỳ lạ như đám tang của
ông. Ngay khi ông đang hấp hối thì tên ông đã tràn ngập trên facebook. Sau đấy,
đám tang ông nghìn nghịt người, từ phó thủ tướng đến các bộ trưởng, từ bạn viết
đến bạn đọc. Và nhiều người mới ngạc nhiên thốt lên: Té ra Nguyễn Trong Tạo
“phi thường” thật, khi mất mới biết sức lan tỏa của uy tín, của tính cách, của
tài năng, của con người ông nó khủng khiếp đến như thế nào? Lâu lắm rồi mới thấy
một người nằm xuống mà gây xúc động cho xã hội đến thế. Điều ấy tự nhiên mà tới,
không ai bắt buộc được. Cũng như, chắc ông Tạo cũng chả nghĩ là, khi mình nằm
xuống lại có nhiều người yêu đến thế...
Ngay
tại Nghệ An, ở thị xã Hoàng Mai ấy, tôi cũng đang có một “bạn thân”. Tôi ngoặc
kép chữ bạn thân là bởi bạn thân mà chưa bao giờ... gặp nhau. Cái thời mạng
phát triển nó khiến cho con người có những hành xử giao tiếp bất ngờ như thế.
Là anh này chơi phây phúc, là bạn phây búc của tôi. Anh nói anh thích đọc tôi,
và mời tôi khi nào ra Nghệ An thì ghé Hoàng Mai làm khách của anh. Quan trọng
là, anh nhấn mạnh rằng, tôi là cư dân Hoàng Mai đấy, mộ tổ 600 năm trước phát
tích từ Hoàng Mai đấy. Chúng tôi cứ nói chuyện với nhau trên phây, cho đến một
ngày tôi phát hiện, anh là một trong những “yếu nhân” của Hoàng Mai. Tôi quý
anh này ở cái nhìn hết sức uyển chuyển và có trách nhiệm về thời cuộc, về nhân
tình thế thái, và đặc biệt, là “yếu nhân” mà chơi facebook rất “mả”, dù trước đấy
tôi biết cũng khá nhiều “yếu nhân” chơi phây búc, để làm việc, để nắm thông tin
xã hội, để gần dân hiểu dân. Đặc biệt nữa, là anh rất yêu quý anh em văn nghệ
sĩ, trí thức...
Hồi
cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng còn sống, có lần ông ngắm tôi rồi nheo mắt,
nâng ly bia lên nói: Ông có biết ông gốc ở đâu không, Chăm đấy. Tinh hoa Chăm đấy.
Cũng
định lúc nào hỏi thêm ông để rõ, thì ông đã mất.
Rồi
tôi nhận được thư của Văn tộc Việt Nam thông báo, rằng nhà thờ tổ họ Văn ở Hoàng Mai Nghệ An được
xây dựng, dịp khánh thành mời con cháu họ Văn tề tựu. Rồi sau đấy là mấy cuộc đại
hội đại biểu họ Văn Việt Nam toàn quốc. Tôi có mấy lần hẹn hò với giáo sư Văn
Như Cương sẽ cùng về viếng tổ, chưa kịp thực hiện thì giáo sư đã ra đi...
Giờ
thì tôi chính thức biết mình cũng là... Nghệ nhân, tức ngài Nghệ.
Một
cảm giác rất lạ đan xen ngay khi biết thông tin xác thực ấy. Té ra từ 600 năm
trước, họ Văn của tôi đã chia ra hai nhánh, có một nhánh ngược Bắc, một sự lạ,
bởi lịch sử Việt Nam là lịch sử Nam tiến. Nhánh ra Bắc ấy giờ có gia đình danh
tiếng là gia đình đại tướng Văn Tiến Dũng. Còn lại là xuôi Nam như quy luật. Thời
ở Thanh Hóa, cái họ tôi hiếm lắm, đi đâu xướng lên thế nào cũng có người nhìn.
Giờ vào Nam mới biết, nhiều vô cùng, bắt đầu từ Quảng Trị, vào tận Long An, Sóc
Trăng, Bạc Liêu... Con cháu họ Văn giờ đang tổ chức... tìm nhau, hàng năm đều về
Hoàng Mai viếng tổ. Có một anh trai họ Văn rất trẻ, nhưng rất có ý thức dòng họ,
là người xắn tay lo đến sáu bảy mươi phần trăm công việc cho họ, là “thủ từ” của
nhà thờ họ Văn, là anh Văn Minh Phụng. Anh này từng bỏ cả mấy tháng trời đi khắp
nước để tìm họ Văn...
“Nghệ
nhân”, chả biết ai là người đầu tiên gọi người Nghệ như thế, tôi đồ chừng chắc
chắn phải là một ông đồ Nghệ. Xứ Nghệ lắm người tài, giọng nói cứ ngân lên là
thành nhạc, vậy nên, âm nhạc xứ Nghệ khiến người đi xa cứ nao lòng mà nhớ là thế.
Hồi chưa biết mình cũng là “ngài” Nghệ, trong một lần đi nước ngoài, tôi đã kỳ
công cop rất nhiều bài hát Việt vào điện thoại để nghe trong những ngày xa xứ.
Sang tới nơi nghe mới giật mình, ¾ số bài hát tôi cóp ấy có âm hưởng Nghệ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét