Đấy là lần đầu tiên mình gặp bác Sơn, nhưng tên bác thì mình biết rồi, sách của bác mình cũng đọc rồi, nên mình nâng ly trịnh trọng lắm, vì trông ông ấy đạo mạo hơn mình. Nhưng té ra cái anh già bạc từng phần này lại rất thoải mái dù mâm tụi mình đông người và nhiều người chưa nghe tên ông. Nhậu tê thì cu Hòa ra đường bắt xe lên Đăk Glây cách đấy 200 cây mà chiều đã nhem nhém rồi, chả biết nó có đến nơi không. Còn bác Sơn thì hình như về khách sạn ngủ, mình không nhớ rõ nữa.
Vấn đề là mới đây ông Sơn gửi tặng mình một cuốn sách có cái tên rất quê: "Gã tép riu" với lời nhắn: đọc nhé. Đọc chứ, mình đọc ngay, trong có 2 đêm, cứ thắc thỏm phải viết về nó, thắc thỏm suốt mấy tháng nay rồi...
Là bởi ông viết ghê rợn quá. Nó bạo liệt và đau đớn. Nó vạch ra những điều có thể nhiều người biết nhưng lại không nói ra, nó cũng thấy được nhiều điều mà người thường không thấy. Nó trưng ra con đường tiến thân bằng... thân của một số sâu bọ hiện nay, mà trong tiểu thuyết là nhân vật Thủy. Đặc biệt lần đầu tiên trong tiểu thuyết Việt, một nhân vật cấp cao, rất cao, được tác giả xây dựng khá... không mờ...
Thú thật là đọc xong mình hoang mang cả tháng. Nó như một vết chém, toang hoang ra mọi thứ, làm người bị chém đau đã đành, còn làm người chứng kiến ghê sợ- viết được như thế là rất đáng nể.
Và trong khi còn loay hoay với vết chém ấy thì thấy có bài của nhà phê bình Bùi Việt Thắng trên vanvn.net về cuốn này, mình mang về đây như một cách chia sẻ và cám ơn nhà văn Nguyễn Bắc Sơn...
--------
Bi kịch lạc quan
(Đọc “Gã Tép Riu” - Tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn, Nxb Hội Nhà văn, 2013)
Bùi Việt Thắng -
Bìa tiểu thuyết Gã Tép Riu
Một tiểu thuyết hấp dẫn. Đó là cảm giác rất sảng khoái của tôi sau khi đọc xong Gã Tép Riu
 của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn. Trước hết cần phải nói ngay rằng đọc được 
một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, theo đúng nghĩa của từ này, trong bối cảnh
 hiện nay không phải là chuyện dễ (cho dù cơ chế thị trường đã tạo đà 
cho “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” và quan niệm về tính hấp dẫn 
của văn chương cũng thật đa dạng). Sự hấp dẫn của Gã Tép Riu, 
theo tôi, không chỉ nằm ở “chuyện” về mối tình tay ba đẫm nước mắt  (có 
thể nói là cả máu) giữa hai người đàn bà và một người đàn ông (một cô 
gái điếm tên Dự, vợ không chính thức của Tùng - làm nghề báo -  Diệu 
Thủy, vợ Tùng, một phụ nữ có nhan sắc và địa vị cao trong xã hội). Không
 hiểu cơn cớ gì mà khi đọc Gã Tép Riu  tôi lại nhớ đến bài thơ 
có cái nhan đề rất lạ, xuất hiện cách đây hơn bốn mươi năm, của nhà thơ 
Việt Phương - NƠI GỪ (đúng là chữ  NGƯỜI bị xé ra). Phải chăng con người
 thời đại đang bị phân thân, bị nghiền nát, bị “xé rách” ra hơn bao giờ 
hết?! Tôi nghĩ Nguyễn Bắc Sơn là một cây bút tiểu thuyết có duyên - một 
thứ duyên trời cho chứ không phải nhờ kiên nhẫn lao động chữ nghĩa mà có
 được. Nhưng nếu chỉ có “chuyện hay” thì vẫn rất có thể khi đọc xong tác
 phẩm người ta cũng dễ dàng quên nhanh, không còn gì đọng lại vì cái 
nhất thời mà nó đáp ứng được. Nói cách khác, nếu như tác phẩm trôi tuột 
đi là vì nó không có ám ảnh, không có dư ba. Thật ra thì đằng sau những 
“chiêu thức” giữ độc giả (mà đây lại không phải là ưu thế của một nhà 
văn đã ở vào cữ tuổi “xưa nay hiếm” như Nguyễn Bắc Sơn), phải có một cái
 gì đó lớn hơn và sâu sắc hơn cả về nội dung tư tưởng, cả về nghệ thuật 
tiểu thuyết. 
Không khí truyện (hay là “hơi thở” đời 
sống thời đại) chính là yếu tố hàng đầu tạo nên tính hấp dẫn của tiểu 
thuyết. Do công việc tôi cũng có điều kiện đọc được khá nhiều tiểu 
thuyết đương đại, nhưng vẫn cứ thấy thiếu vắng cái “hơi thở” đời sống mà
 thường những tác phẩm thành công có thể giúp cho độc giả tiếp nhận được
 một cách cụ thể, sinh động bằng tất cả các giác quan cái quang cảnh và 
bầu khí quyển xã hội được phản ánh (thậm chí có người nói có thể “sờ mó”
 được). Tiểu thuyết Gã Tép Riu tái hiện một cuộc sống đầy rẫy những ngẫu nhiên và bất thường, bất trắc. Hay nói cách khác là cái phi lí
 đang chi phối đời sống  xã hội trong sự vận hành của nó. Sự thăng tiến 
như diều gặp gió của Diệu Thủy là kết quả của một sự ngẫu nhiên, đầy 
ngẫu hứng, như một sự trớ trêu của tạo hóa “ Khi có một vị lãnh đạo cao 
cấp cư trú ở phường này đi qua, nổi hứng rẽ vào thăm cuộc họp tổ dân 
phố” (tr. 12). “Nổi hứng” vào thăm chứ không theo một kế hoạch công tác 
nào của vị lãnh đạo cao cấp này. Và chính trong bối cảnh ăn may ấy 
(nương theo cái tâm lí may - rủi của đám đông), sự tự tin đã giúp Diệu 
Thủy dám nhận cái chức chủ tịch phường. Thế là cô “lên đời”, như ngôn 
ngữ hiện đại thường nói, không cần hao tâm tổn sức vì “Người ta phấn đấu
 mười năm không bằng một câu phát biểu của cô” (tr. 15). Cứ như diều gặp
 gió, Diệu Thủy vù vù thăng tiến, cuối cùng lên đến chức thứ trưởng một 
bộ nọ. Hóa ra một người rất bình thường mà “Lọt vào mắt xanh của lãnh 
đạo cao cấp  thì… tha hồ mà tiến bộ…” (tr. 15). Nhân vật Diệu Thủy gợi 
cho độc giả nhớ tới Xuân Tóc Đỏ - nhân vật gắn với cái “vô nghĩa lí” mà 
nhà văn Vũ Trọng Phụng đã dụng công miêu tả  trong tiểu thuyết Số đỏ.
 Vô nghĩa lí đến mức “Một đồng chí thợ điện cơ quan, chú còn bồi dưỡng 
thành bộ trưởng cơ mà!” (lời của “Chú ấy” - nhân vật lãnh đạo cao cấp 
được miêu tả theo phương pháp “mờ hóa”).
Các nhân vật tiểu thuyết sống trong một 
bầu không khí thời đại mà tâm linh trong nhiều trường hợp đã bị biến 
dạng thành dị đoan, khiến con người biết bao phen lao đao vì những niềm 
tin mù quáng. Diệu Thủy và Tùng có một đứa con trai độc nhất (tên Lâm), 
đến tuổi nghĩa vụ trở thành lính hải quân, đã hi sinh trong một trường 
hợp cực kì vô lí vì “Lần ấy, đơn vị nó có nhiệm vụ chiếm một đảo không 
người. Việc ngon như óc chó nếu như ta đổ bộ ngay. Thế nhưng, chả biết 
bố nào xem ngày, lại bảo lùi lại, đợi mai ngày tốt hãy đổ bộ. Thế là đêm
 ấy địch đến sau lại kịp chiếm mất. Sáng hôm  sau, cả con tàu ta liều 
chết lao vào, nhưng không lại được với hỏa lực rất mạnh của chúng (…). 
Lâm chưa kịp đánh đấm gì đã hi sinh. Và điều đau buồn nhất là không bao 
giờ tìm được hài cốt con giữa muôn trùng biển cả” (tr. 20 - 21). Phải 
chăng đức tin của con người đang bị lung lay nên họ buộc phải 
tìm tới sự an ủi và nhiều khi là phép màu của thần linh như một lực 
lượng siêu hình có quyền năng tuyệt đối?! 
Người ta nói, nhìn vào gia đình sẽ thấy xã hội. Trong tiểu thuyết Gã Tép Riu
 cái “hang ổ” của Tùng - Diệu Thủy tiêu biểu cho cái gia đình hiện đại 
khi nó đứng trước nguy cơ tan vỡ hơn trước nhiều lần. Phải nói rằng 
trước khi Diệu Thủy tham chính thì gia đình họ khá điển hình cho một tổ 
ấm hạnh phúc (Tùng có cả “vợ đẹp, con khôn, chính trị, chuyên môn”). Vợ 
chồng Tùng và Diệu Thủy, cũng giống như con người thời đại, đã được sống
 hết mình cả trong tình dục và tình yêu. Cả chương 3 (tr. 25 - 37), nhà 
văn không ngần ngại gì đi sâu vào miêu tả cái hạnh phúc bình thường của 
con người, của đời sống tình dục chồng vợ vốn vô cùng bí ẩn và tinh tế 
trong phần bản năng gốc của nó. Gia đình Tùng - Diệu Thủy về sau (nhất 
là sau cái chết của đứa con trai duy nhất) đã tan vỡ theo những con sóng
 li hôn ngày càng tăng cao trong xã hội, khi cái gọi là “nữ quyền” càng 
được quan tâm và đề cao, khi mà tham vọng quyền lực có thể làm mờ mắt 
con người. Cái không khí bát nháo của đời sống hiện đại đầy tính chất 
hiện sinh trong tiểu thuyết Gã Tép Riu đậm đặc ở những chương, đoạn kể về cuộc đấu tranh nẩy lửa giữa những người tử tế và kẻ không tử tế
 trong một dự án có tầm cỡ quốc gia nhưng lại do một nhúm người “cha 
căng chú kiết” vẽ vời, đắp điếm mà thành. Trong cuộc đấu tranh này, Tùng
 là nhân vật “đầu têu”. Rất may cuối cùng nhờ công luận và sự phản tỉnh 
của những người có trách nhiệm, đã kịp ngăn chặn một kế hoạch không phải
 là ảo tưởng, mà là một kế hoạch nguy hiểm, có tính toán dựa trên cái 
gọi là “ lợi ích nhóm” như bây giờ chúng ta thường nói. Cuộc đấu tranh 
này buộc những con người như Tùng phải dấn thân, chấp nhận mất mát hi 
sinh để bảo vệ chân lí.
Nhân vật sắc nét là một yếu tố quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của Gã Tép Riu.
 Diệu Thủy xuất hiện ngay từ chương đầu của tiểu thuyết trong vai một Bí
 thư Quận Đoàn, rồi nhờ một sự ngẫu nhiên mà bước vào được chốn quan 
trường. Càng thăng tiến bao nhiêu trong chính trường thì Diệu Thủy càng 
đánh mất đi bấy nhiêu  tình nghĩa vợ chồng với Tùng, tình người với đồng
 loại (với Dự chẳng hạn). Quá trình tha hóa của Diệu Thủy được chính 
chồng cô gọi là “gái mại dâm chính khách” (tr. 429). Tôi cứ mường tượng 
đến hình ảnh “miếng da lừa” trong tiểu thuyết cùng tên của văn hào Pháp 
 O. Balzac, rồi nghĩ tới nhân vật Diệu Thủy. Cứ mỗi bước thăng tiến dễ 
như thò tay vào túi mà lấy ra thì cuộc đời cô ta lại bị thu hẹp lại, mất
 dần đi tính mẫu (sau cái chết của đứa con trai duy nhất cô không sinh 
nở nữa để tập trung thời gian phấn đấu thăng tiến, rồi đến khi muốn có 
con lại chẳng thể được), cạn vơi dần đi tình cảm vợ chồng vốn rất tự 
nhiên như một báu vật trời cho con người (đến mức khi chồng muốn ân ái 
thì cô lạnh lùng nói “Em không hưởng ứng đâu. Anh có cần thì dùng”, đến 
mức Tùng phải lén quay cảnh vợ khỏa thân để tự sướng…). Đến khi tình cảm
 vợ chồng đã không còn, cô nghĩ ra nhiều mưu kế ngăn cản li hôn vì muốn 
giữ gìn danh tiếng của một bà thứ trưởng. Giọt nước đã làm tràn li khi 
chính Tùng lớn tiếng trước tòa “Một bên đã từng bán trôn nuôi miệng, còn
 một bên…đang bán miệng nuôi trôn” (tr. 429). Và cái khoảnh khắc đáng 
nhớ trong cuộc đời Tùng đã xảy ra ngay trong phiên tòa khi “Diệu Thủy 
bật người lên, xông lại, tung một cú đá song phi làm Tùng ngã vật ra, 
mặt đập phải thành ghế trước khi đổ ập xuống sàn nhà” (tr. 429). Diệu 
Thủy đã là một kẻ vũ phu cả với chồng và với người vợ không chính thức 
của chồng “Mặt đằng đằng sát khí, miệng nói, hai tay chị ta xô mạnh cái 
bàn nước về phía trước. Cạnh bàn lao vào giữa bụng làm Dự bật ngã bổ 
chửng” (tr. 378). Sau cái tai nạn kinh hoàng ấy, Dự được cứu sống, nhưng
 đứa con bảy tháng tuổi trong bụng cô và Tùng đã chết. Rõ ràng là phần 
“con” đã hủy diệt cái phần “người” của nhân vật Diệu Thủy. Nhân vật này 
biểu trưng cho cái ác đang lộng hành trong đời sống xã hội, cho cái xấu 
đang hủy diệt con người hiện đại. “Gã Tép Riu” Tùng muốn giữ gìn tiết 
tháo kẻ sĩ và cô gái điếm Dự với khát vọng hoàn lương là những nhân vật 
biểu trưng cho khát vọng trở thành con người tử tế. Cặp nhân 
vật này là phần sáng của cuộc đời, đối lập với phần tối đầy rẫy những 
phi lí và cái ác ngự trị trong một xã hội đang “lột xác” đi tới văn minh
 - nhân ái - công bằng. Nhà tiểu thuyết không chỉ kể một cách hấp dẫn về
 những việc họ đã làm mà chú ý tới cái cách họ làm (những người tử tế 
như Tùng, Dự làm gì cũng thẳng thắn, minh bạch, công tâm). Dự mặc dù bị 
Diệu Thủy hành hung nhưng vẫn nhẫn nhịn “Chị ấy không chịu được khi một 
kẻ thấp hèn như em lại dám đấu lí với mình…Kể ra, anh đến với em muộn 
hơn, cho xong xuôi chuyện với chị ấy thì đúng hơn…Thế là em có lỗi với 
chị ấy. Đàn bà, mấy ai chịu được cảnh chồng chung…Tuy chị ấy li thân với
 anh lâu rồi” (tr. 382). Rõ ràng tuy là một cô gái “bán trôn nuôi miệng”
 nhưng Dự là người có nhân nghĩa, là người tử tế như cách miêu tả của 
tác giả.                  
Không có gì quá khi gọi gọi Gã Tép Riu
 là một “bi kịch lạc quan”. Mặc dù tiểu thuyết kết thúc bằng bi kịch 
(Tùng mất đứa con mới bảy tháng tuổi vì tai nạn do chính Diệu Thủy gây 
ra, lại bị chính người vợ bao nhiêu năm chung sống tấn công ngay trước 
tòa án, bị cảnh cáo và buộc thôi chức trưởng phòng, bên Đảng cũng bị 
cảnh cáo ghi lí lịch vì vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng…). Đúng
 là “phúc bất trùng lai họa vô đơn chí”, đúng là cái may và cái rủi đi 
liền nhau. Nhưng theo tôi thì Tùng đã “gặp may” nhiều hơn rủi, vì dẫu 
chịu nhiều tai ương nhưng cũng là cơ hội để anh nhận chân sự thật, để 
anh có cơ hội giải thoát khỏi căn bệnh “đồng sàng dị mộng”, như một vấn 
nạn không chỉ mình anh mà những người tử tế như anh phải gánh chịu đằng 
đẵng. Bi kịch theo đúng nghĩa của từ này bao giờ cũng có tác dụng thanh 
lọc tâm hồn con người. Rất có thể nhiều độc giả đã khóc trên những trang
 sách Gã Tép Riu, nhưng cái đọng lại là một sự phấn khích khi 
cái tốt, cái đẹp có cơ hội chiến thắng. Những thất bại của Tùng, của Dự 
chỉ là thất bại tạm thời.
Vẫn cứ cảm thấy đáng tiếc vì những dư thừa của Gã Tép Riu.
 Tuy nhiên phải nói ngay rằng, một thúng gạo ngon đôi khi cũng không 
tránh khỏi đôi ba hạt sạn. Với 51 chương trong 430 trang in, tuy chưa là
 dài, tuy chưa phải là làm rối trí độc giả, nhưng giá như gọn hơn thì 
tiểu thuyết sẽ có cái sắc bén của một mũi tên được bắn đi với tốc độ 
cao, tới đích nhanh. Cần thiết phải vận dụng phép “tỉnh lược” như khuyến
 cáo của M. Kundera. Trong tiểu thuyết, chúng tôi thấy có nhiều đoạn “rẽ
 ngang” không cần thiết (chẳng hạn chương 31: đi sâu vào các ngón nghề 
ăn chơi trác táng của thế giới nhà thổ). Có thể với một số ít độc giả 
thì những chuyện ấy rất “bắt mắt” vì lối viết sát sườn, phơi bày ra tất 
cả những thói ăn chơi đồi bại phong hóa ở một xứ sở dẫu sao vẫn còn rất 
nghiêng về truyền thống Á đông. Thêm vào đôi chỗ rải rác ở các chương, 
nhân vật hay thích triết lí. Tôi nghĩ, nếu không khéo léo và nhuần 
nhuyễn thì vô hình chung sẽ rơi vào cái gọi là “triết lí vặt” - theo 
cách gọi của nhà văn Hoàng Ngọc Hiến mà một lần tôi đã đọc thấy đâu đó. 
Tuy “đành lòng vậy cầm lòng vậy” nhưng tôi nhìn thấy sự thành công là 
căn bản của tiểu thuyết Gã Tép Riu.
Hà Nội, tháng 4 năm 2013
10 nhận xét:
Lịch tháng bảy thiếu ngày hai tám
Văn Công Hùng bóc dán nơi nao
Mai ngày chép sử làm sao
Trung phần còn lắm anh hào ẩn danh.
Vũ Xuân Tửu
@Vũ Xuân Tửu:
--
Là thế nào bác Tửu ơi???
Đọc bài bình luận, muốn tìm đọc truyện này quá à.
- Theo em hiểu là bác Vũ Xuân Tửu trách bác Hùng không có bài vào ngày 28/7, bởi bác Hùng đã hứa là 1 entry/ngày mà, hi!
- Em thấy câu:
"Diệu Thủy đã là một kẻ vũ phu cả với chồng..." không ổn lắm với từ vũ phu, đúng ra phải là vũ...thê chứ ạ, hì hì!
123 mạn phép có đôi lời thưa cùng chư vị:
-Tháng bảy...thiếu đúng một ngày.
"Mại dâm chính khách" ông bày đặt rên
Văn Hùng xuân đã mấy niên?
Để Tửu say rượu làm phiền com măng?
Truyện Bắc Sơn-hỏi thẳng băng:
Trong ấy có cụ "chắc răng cặc bền?"
- Nguyễn Minh Tuấn đúng là "Cù Lao tràm". He he he...
Nhà văn cho em xin phép share bài này trên tường nhà em nhé. Em quen với bác Nguyễn Bắc Sơn :D. Em cám ơn.
Em xin phép rinh bài này về wall nhà em nhé, bác Văn Công Hùng. Em có quen biết bác Nguyễn Bắc Sơn.
Thanks bác VCH.
Ông bà ta thường nói: "Thương bất chính, hạ tắc loạn", vậy thôi, rất là đơn giản để lý giải vấn đề trầm kha của xã hội
OK, hay. thanks bác Hùng.
Nge như là truyện chị trên cung trăng ở kinh kỳ phải không bác VCH
Đăng nhận xét