Thứ Hai, 27 tháng 1, 2025

HÀNH TRANG VÍ, GIẶM

 

Thì ví dụ như thơ, Nghệ An rất đông thi sĩ, và cả nước cũng rất nhiều thi sĩ viết về xứ Nghệ, nhưng thành công thật sự, có những thi phẩm để đời, nếu căn ke ra thì cũng... không nhiều lắm. Có thể kể ngay tới Hoàng Trần Cương, Trần Mạnh Hảo, Lê Huy Mậu và mươi bác nữa. Nhưng những câu thơ về sông Lam thế này thì tôi cho là bất tử: “Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa/Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam.../Miền Trung/Câu ví dặm nằm nghiêng/Trên nắng và dưới cát/Đến câu hát cũng hai lần sàng lại/Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm” (Miền Trung, Hoàng Trần Cương), hoặc như: “Sông bổ đôi Nghệ Tĩnh/Sông nằm hóa lục bát Nguyễn Du/Sông đứng thành Hồng Lĩnh/Sông đi thành ví, giặm trời xanh” (Sông Lam, Trần Mạnh Hảo)...

Tôi vẫn thường theo dõi tin Nghệ An trên các phương tiện truyền thông, và hôm nghe cái tin “Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại tại kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể được tổ chức tại thủ đô Paris, Pháp” thì rất mừng, bởi nói gì thì nói, lâu nay cái loại hình ví, giặm ấy vẫn được coi là lấm láp quê mùa, là đồng quê rơm rạ, là tre pheo ngõ xóm... giờ nó đường hoàng có đai có đẳng, bước hẳn chân vào thế giới hiện đại, và tới giờ là, “kỷ nguyên mới”.

Mới đấy mà đã kỷ niệm 10 năm rồi.

Dân Nghệ rất tự hào về món ví, giặm của mình. Và chính nhờ sự “tự hào” có khi tới cực đoan ấy mà ví, giặm có mặt khắp nơi, cả nước ngoài, miễn nơi ấy có người Nghệ, và giờ thì mở rộng ra, miễn nơi ấy có người Việt.

Mà quả là, cái giai điệu ấy, nguyên bản dân ca hay được dựa vào đấy để sáng tác mới, nó vẫn dễ đi vào lòng người nhất, nó dễ khiến người ta bồi hồi nhớ quê nhất, dẫu không phải ai cũng trình bày nỗi nhớ, cũng diễn sự tự hào ấy thành công. Cứ gừng cay muối mặn, cứ núi Hồng sông Lam, cứ bên trong bên đục, cứ đò sang rồi về... mãi nó cũng nhàm. Nó cần một sự làm mới, sự tung tẩy trên cái nền cái gốc dân ca xứ Nghệ ấy. Ai vượt được qua điều ấy thì người ấy thành công. Không chỉ âm nhạc mà cả trong văn học.

Thì ví dụ như thơ, Nghệ An rất đông thi sĩ, và cả nước cũng rất nhiều thi sĩ viết về xứ Nghệ, nhưng thành công thật sự, có những thi phẩm để đời, nếu căn ke ra thì cũng... không nhiều lắm. Có thể kể ngay tới Hoàng Trần Cương, Trần Mạnh Hảo, Lê Huy Mậu và mươi bác nữa. Nhưng những câu thơ về sông Lam thế này thì tôi cho là bất tử: “Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa/Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam.../Miền Trung/Câu ví dặm nằm nghiêng/Trên nắng và dưới cát/Đến câu hát cũng hai lần sàng lại/Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm” (Miền Trung, Hoàng Trần Cương), hoặc như: “Sông bổ đôi Nghệ Tĩnh/Sông nằm hóa lục bát Nguyễn Du/Sông đứng thành Hồng Lĩnh/Sông đi thành ví, giặm trời xanh” (Sông Lam, Trần Mạnh Hảo).

Gần đây, tức là từ khi vượt qua ngưỡng tuổi 70, nhà thơ Lê Huy Mậu, tác giả phần lời ca khúc “Khúc hát sông quê” mà nhạc  sĩ Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc ấy, hay viết những “tản mạn nhìn lại”. Ông nguyên là sinh viên ngành triết nên những cái “nhìn lại” của ông nó khá... minh triết, chưa... lẩm cẩm như tuổi. Nói thêm một tí, cái bài thơ dài (trường ca) “Thời gian khắc khoải” của ông ấy, nó rất hay, đậm chất triết học và rất dài. Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã “nhặt” ra những câu hiển nhiên nhất, thậm chí vô lý, tức là dở nhất, để lắp nhạc vào và thành một bài hát hay là bài “Khúc hát sông quê” hầu như ai cũng thuộc. Tôi đã nói điều này với nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo khi ông còn sống, ông nheo mắt nhìn tôi một lúc rồi nói: chú đúng.

Trong những cái “tản mạn nhìn lại” ấy, thi thoảng ông Mậu lẩy ra một bài thơ về quê. Ví dụ như bài này:

“Quê hương.

Ta một quê. Bạn ở một quê. Chợt gặp tuổi thơ mình trong lời bạn hát. Như hát cả phần ta về cánh đồng, về dòng sông, về mẹ, và cả mối tình đầu bên đụn rơm lấp ló trăng non.

Chỉ chút xíu nữa thôi là ta đã buông bút. Vẫn biết trên cánh đồng văn chương không ta đã đông người gieo gặt. Nhưng liệu có ai ngoài ta sẽ làm thơ về Bàu Sen, Đồng Chăm, Đồng Nát… Như bạn đã từng làm thơ về Chùa Mô, Đằng Miều, Con Cóc… Những cái tên nghe thơm như vệt bùn non trên vạt áo của đồng chiêm.

Quê hương ơi!

Buổi chiều nay ta kéo ghế ngồi trước hành lang, nhìn con trẻ chơi quẩn quanh bên hè phố. Trên bầu trời lởm chởm cột ăng-ten và nhì nhằng dây điện. Ta nhớ quê. Nhớ tuổi thơ lam lũ nhưng thừa gió và bầu trời thoáng đãng cho cánh diều lên.

Quê hương ơi!

Đã lâu lắm rồi ta chưa chân trần lội bộ. Trong mảnh vườn chỉ mấy thước vuông, chẳng có cây nào được phép lớn ở đây. Nhưng ta có trong mơ, trong kỷ niệm, về bùn, về cây, về ngô, khoai, lúa… Tháng chín lúa trổ đòng đòng, chim chèo bẻo bay về họp họ làm náo loạn cả hoàng hôn…

Quê hương ơi!

Cho ta gửi về dòng sông mùa đông sương sớm. Con đò ai chở khách sang ngang. Sóc sách tiếng mái chèo vỗ nhịp vào vĩnh cửu…

9/1999”.

Một quê hương thăn thắt, quê hương mồn một, quê hương da diết, quê hương đau đáu nỗi nhớ của một gã thi sĩ tha hương. Ta mới nhận ra quê hương nó sâu đậm khắc khoải biết nhường nào.

Cũng như thế, ông già 70 này, ở phương Nam đầy nắng nhưng muốn “Dắt tháng mười về quê”: “anh dắt em về thăm đồng làng sau vụ gặt/ từng chân rạ cua đội mà tránh rét/ lỗ chân trâu nước đục cá rô đằm/ đàn chim ngói nhớ mùa chao chác liệng/ khói thơm mùi cua nướng tỏa lên không?”.

Là tôi lẩn thẩn nghĩ khi cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng đang chuẩn bị những bước cuối cùng để bước vào “kỷ nguyên mới”.

Trong hành trang ấy, đầm đẫm tâm hồn và tinh thần người xứ Nghệ.

Người Nghệ tại chỗ và người Nghệ xa xứ.

Trong cái va li tâm hồn, tinh thần ấy, không thể không có dân ca, ví, giặm, có thi ca...

Đã không còn những lam lũ như cách đây vài chục năm, cái nghèo vẫn còn, nhưng người giàu khá nhiều. Tôi có nhiều bà con (600 năm trước, ông tổ họ Văn của tôi ở Nghệ An, giờ là Hoàng Mai), và nhiều bạn bè ở Nghệ, đa phần họ... không nghèo, nhiều người là chủ doanh nghiệp, chơi hào phóng. Và quan trọng là, họ rất có ý thức cộng đồng, ý thức vì quê hương.

Cứ nhìn việc xây cái nhà thờ tổ họ Văn và các dịp giỗ tổ họ tôi thì biết. Bà con khắp nước đổ về, cũng có đóng góp, nhưng phần chính vẫn là anh em tại chỗ, những người đúng nghĩa ăn cơm nhà vác tù và hàng... họ.

Rộng ra, người Nghệ là thế.

Việc Nghệ An thông qua Dự thảo đề án Bảo vệ và phát huy giá trị di sản dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh là một tín hiệu rất mừng cho đời sống văn hóa của tỉnh. Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, phấn đấu khu vực đồng bằng có 100%, khu vực miền núi có 50% đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn có thành lập câu lạc bộ thực hành Dân ca ví, giặm. Phấn đấu thành lập thêm 2- 3 câu lạc bộ Dân ca ví, giặm ở các tỉnh khác và thành lập 1-2 câu lạc bộ Dân ca ví, giặm ở nước ngoài. Mục tiêu là bảo vệ và phát huy giá trị Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh trong đời sống đương đại, đảm bảo sức sống của Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh, phổ biến những giá trị nhân văn cho thế hệ mai sau.

Về xứ Nghệ bây giờ, quả là thấy khác một trời một vực với chỉ dăm năm trước đó, nói gì tới thập kỷ. Có lần một anh bạn mê đọc báo làm ở nhà in Nghệ An đã chiều tôi, xin nghỉ một buổi chở tôi tới những nơi tôi từng qua hồi tuổi trẻ. Chịu chết. Ấn tượng nhất là quy hoạch Vinh rất to và rộng, tôi nói đùa với bạn bè, vỉa hè ở Vinh rộng tới mức có thể quay đầu xe ô tô được.

Và cũng nhớ mãi giáp tết năm ngoái, trời lạnh teo... áo, tôi ra Nghệ An, các bạn lôi đi xem/ nghe ví dặm ở... quảng trường. Ban đầu tôi không tin lắm việc có thể mang ví, giặm lên quảng trường, nhưng cuối cùng, tôi đã bị thuyết phục.

Và, những hiện đại ấy, cùng với ví, giặm, với bản sắc Nghệ, lên đường vào kỷ nguyên mới.  

Và, với sự quyết liệt, sự đúng hướng, hợp quy luật và hợp lòng dân của việc cả nước bước vào “kỷ nguyên mới”, với những việc đang làm, và sẽ làm, tôi tin chúng ta sẽ thành công. Và mỗi xứ, mỗi vùng, mỗi tỉnh, mỗi địa phương..., sẽ có một đặc sản mang theo. Với Nghệ An, đặc sản ấy, theo tôi, là ví, giặm và những gì liên quan. Nó tạo ra một dấu ấn Nghệ, bản sắc Nghệ, tâm hồn Nghệ trên hành trình mới...

Báo Nghệ An tết 2025 ạ.


 


 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào: