Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2025

VÂN VI VỚI BẠN VĂN QUẢNG NGÃI NHÂN ĐƯỢC ĐÃI BÁNH XÈO

 Ông nhà thơ Phạm Đương gọi: Nguyễn Đăng Vũ nhờ em mần số tạp chí Sông Trà tết. Ổng nhờ em thì em nhờ... anh, viết cho một bài thật vui, thật tếu, thật hiện thực phê phán nhân em đãi anh bữa bánh xèo hoành tráng mà anh viết trên phây hàng ngàn người lai mà em không biết anh chê hay khen á.

Bố khỉ, nó mời mình bữa bánh xèo thay ăn chiều, 3 thằng, toàn thứ cũng này nọ và ra gì cả mà hết hẳn tờ 5 trăm còn được thối mà giờ lại còn... đòi nợ. Thôi thì, đã trót thì bèn, chứ chả lẽ móc ra được trả chúng hắn...


Giáp tết, tôi có việc về Quảng Ngãi mấy ngày, chỉ mấy ngày mà ấn tượng rất đậm, về Pleiku, mang theo ấn tượng ấy mà viết bài này.

Thực ra không phải lần đầu tôi ghé Quảng Ngãi, ít nhất đã một lần ngủ lại đấy, đã vài lần lái xe chạy qua thành phố, có lần ghé nhà bạn ăn trưa rồi chạy tiếp. À lại còn hẳn một chuyến đi Lý Sơn tới mấy ngày.

Nhưng cái cảm giác Quảng Ngãi nó vẫn đầy ấm cúng, bởi ở đấy tôi có những người bạn, người anh. Ông anh mà tôi vừa sợ vừa quý là nhà thơ Thanh Thảo. Có các bạn cùng lớp đại học như Nguyễn Đăng Vũ, Trần Văn Thanh (cựu giám đốc sở Nội vụ), Nguyễn Chín (cựu bí thư thành ủy Quảng Ngãi, trưởng ban tổ chức tỉnh ủy), và cả ông em đồng môn đồng nghiệp Phạm Đương...

Tôi cũng không nhớ gặp nhà thơ Thanh Thảo lần đầu vào thời gian nào, chỉ loáng thoáng là bén rén tới chào ông: Em là Văn Công Hùng. Ông cười, ra là mày đấy hả? Thế thôi rồi... bình đẳng nói chuyện, cả nghiêm túc và tiếu lâm, vì hồi ấy tôi quen với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Thụy Kha trước, mà ba ông này thì rất thân nhau, trong làng văn Việt Nam có rất nhiều giai thoại về 3 ông kễnh văn chương này.

Nhớ lần tôi đang làm giám đốc truyền thông và văn hóa cho khu du lịch “Một thoáng Việt Nam” ở Củ Chi, Hồ Chí Minh, có tổ chức mời một số nhà văn nhà báo vào thăm. Để mời Thanh Thảo phải có chị Ý Nhi (chị mới mất năm ngoái), và cả 2 ông bà đi thì cần ông em Phạm Đương tháp tùng thì mới yên tâm vì sợ sức khỏe ông yếu, vả nữa, Phạm Đương là nhà thơ “trẻ” cận vệ cho nhà thơ đàn anh. Té ra ông... khỏe hơn cả 2 vị kia.

Trước rất đông nhà văn ở “Một thoáng Việt Nam”, Phạm Đương bô bô kể chuyện “ngoài chính sử” về nhà thơ đàn anh, rằng không chỉ người Quảng Nam mới hay cãi, mà Quảng Ngãi cũng không vừa, vì cùng là... Quảng, lại sát nhau. Rằng là có khách tới Quảng Ngãi, ngồi nhậu mới hỏi thăm cô bé nhà hàng là có biết nhà thơ Thanh Thảo không, ý là nếu có biết thì cho xin điện thoại hoặc chỉ nhà ông Thanh Thảo để anh ta mời nhà thơ idol của mình tới để được diện kiến, và hầu nhà thơ mấy ly. Cô gái sau một hồi thì thào với mấy đồng nghiệp khác bèn dõng dạc trả lời khách rằng, ở đây không có ông nhà thơ mô là Thanh Thảo cả, chỉ có mấy tiệm gội đầu kiêm mát xa có tên Thanh Thảo thôi.

Và mới té ra, hôm ấy có mấy nhà văn phía Bắc mới biết Thanh Thảo là bút danh mà ông Hồ Thành Công lấy tên con mình, Hồ Nhật Thảo, đặt trong các bài thơ, và sau này là tất cả các bài báo của mình, khiến nhà báo Hồ Nhật Thảo con ông giờ luôn phải ký tên thật dài ngoằng khi xuất hiện.

Bạn bè đồn nhau, vào nhà Thanh Thảo thế nào cũng trà ngon bia càng ngon để uống. Sau hôm chị Ý Nhi mất mấy ngày, tôi từ Huế vào ghé thắp hương viếng chị, quả là được anh Thanh Thảo mở loại bia gì đấy, nhập khẩu nguyên chai, ngon không thể tả, chiêu đãi. Biết hơn nửa triệu một chai, tôi “khiêm tốn”, dạ em dạo này kiêng bia, uống chung một chai thôi ạ? Thực ra loại ấy tôi chơi một lúc chục chai vẫn tốt, nhưng nghĩ, mình đã chả có gì biếu đàn anh lại đi uống bia của ổng, dù biết cũng là của fan nào đấy biếu, nó vẫn không đành.

Không chỉ nhà thơ tài hoa, Thanh Thảo còn là nhà báo hết sức chuyên nghiệp. Tôi từng giữ chuyên mục “Gương mặt thơ” cho báo Gia Lai cuối tuần, đặt bài ông là hết sức yên tâm. Không chỉ đúng hẹn mà luôn luôn trước hẹn. Có điều, về món ảnh thì ông thua đàn em Phạm Đương. Ông cop ảnh vào... word để gửi, tôi phải cầu cứu Phạm Đương gửi ảnh. Nghe nói mỗi tuần bây giờ ông phải “sản xuất” gần chục bài báo, và đa phần nhuận bút ông dành để tặng bọn trẻ con ở những địa chỉ mà ông cho rằng chúng đang khó khăn.

Hôm ấy Phạm Đương không có nhà, nên Nguyễn Đăng Vũ là người dẫn chúng tôi đến nhà anh Thanh Thảo.

Nhớ lần tôi từ Huế chạy về Pleiku, tới Quảng Ngãi nghỉ lại, kêu mấy ông bạn cùng lớp đại học kể trên tới “họp lớp”. Các ông ấy hẹn tới cái khách sạn lớn nhất thành phố Quảng Ngãi khi ấy để chiêu đãi tôi. Vào cuộc, mỗi ông kêu một món, toàn sơn hào hải vị, tôi xem rồi bảo, toàn những món tôi đã ăn đẫy ở Huế rồi. Lướt menu tôi thấy có cá nục hấp quấn rau muống và bánh tráng, tôi reo lên, cho tớ món này, nếu cần sang, cho một nồi cá bống nhi đồng kho. Xong.

Hồi sinh viên, Vũ là người tài hoa nhất lớp, chữ đẹp, trình bày báo tường thì thôi rồi. Chỉ một cái lược với bàn chải răng là tờ báo tường lung linh như giờ in offset. Vấn đề là có hôm quên, chàng dùng chính cái bàn chải dùng để chấm mực rồi kéo trên lược để trang trí báo ấy... đánh răng. Trời ơi lên lớp nó đen từ môi tới lưỡi. Chưa hết, Vũ đi học ghi ta rồi về tưng tưng suốt, toàn Trịnh. Và chính Vũ đã sáng tác một ca khúc nổi tiếng để một số “ca sĩ”, có tôi, làm một dàn đồng ca đình đám. Bài hát ấy, cùng với vở kịch “Bản đồ án được chọn”, cũng có công của Vũ, sau này bị... cấm không diễn vì cái thời ấy nó thế, thậm chí có ý kiến là “mầm mống của nhân văn giai phẩm” xuất hiện trở lại.

Thực ra, nếu “hồi ký” về ông bạn Nguyễn Đăng Vũ thì phải có đoạn ái tình sinh viên nữa. Nhưng vợ Vũ ấy, cô ấy rất tốt với tôi. Có hôm giữa trưa tôi chở cả gia đình về Huế, chạy qua Quảng Ngãi, điện hỏi Vũ cái quán cơm “cây đa” tôi hay ăn ấy giờ nó ở đâu để tôi ghé ăn trưa, Vũ quyết ngay: vào nhà Vũ, vào ngay, không ơ a gì hết. Và vợ Vũ, chính là cái cô sinh viên xinh đẹp học giỏi năm xưa của thầy Vũ, xử lý rất nhanh: phóng xe đi mua đồ về bổ sung, trong đó có món bánh xèo Quảng Ngãi khiến cả nhà tôi, toàn bọn kén ăn, xuýt xoa. Thế nên, tôi quyết không “hồi ký” thời vụng dại sinh viên ấy, mà Vũ thì cũng xứng danh để... kể, vì bụ bẫm thế, tài và cả đào hoa thế, học giỏi, thì chả giỏi mà sau này học tới tiến sĩ, làm hiệu trưởng đại học, giờ lại chụp ảnh rất đẹp, dẫu bây giờ mỗi lần họp lớp, toàn lụ khụ hom hem móm mém nhưng vẫn... đỏ mặt kiểu “em chã” khi nhắc về ngày xưa...

Nhưng vừa nhắc tới bánh xèo. Thì hôm rồi tôi ghé Quảng Ngãi ấy, có một buổi rỗi, ông Vũ và ông Phạm Đương chở tôi vòng vèo một hồi từ mấy đại lộ mới mở tới cảng Sa Kỳ, cuối cùng ghé một nhà hàng ven biển, sóng rì rào mây nhởn nhơ cát trữ tình người xinh đẹp, đãi tôi một trận hoành tráng, có bia, có rượu, 15 cái bánh xèo, sò, cháo... hết... gần 500 ngàn, là tôi thấy đưa 1 tờ 500 ngàn và được thối lại nữa. Một ông tiến sĩ một ông nhà thơ đãi khách quý một bữa no say chưa hết một tờ xanh thì quả là, Quảng Ngãi xứng danh thiên đường.

Nhưng bánh xèo thì ngon thật. 3 thằng 15 cái xong nhìn cháo thì... thở, nhìn bia thì... xoa bụng, bèn kêu chai rượu làm vài ly cho nó ra vẻ nhậu chứ chả lẽ toàn dân từng... nhậu giỏi mà vào quán chỉ cắm cúi ăn với thở.

Lại “hồi ký” về Phạm Đương. Anh từng đi lính, lính K hẳn hoi. Thời ấy tôi đang làm Tạp chí Văn Nghệ, trực thuộc Ty Văn hóa Gia Lai Kon Tum. Tạp chí Văn Nghệ là một phòng thuộc sở, kiêm thêm quản lý xuất bản và trực tiếp xuất bản sách.

Một hôm nhận được một phong thư đỏ quạch màu đất, văn thư bóc ra rồi bấm tờ giấy thư kèm bì thư chuyển cho tôi. Địa chỉ nơi gửi là một hòm thư đánh số, nó chứng tỏ là từ một đơn vị quân đội. Tờ giấy đính kèm phong bì là một bài thơ, tác giả là Hoa Thanh An.

Có người lính lần đầu ra phố

Quen sống với rừng nên nhìn thứ gì cũng lạ

Một tà áo màu bay cũng xao xuyến khôn cùng…”.

Đại để thơ véo von thế. Nhưng hồi ấy thì tôi rất mừng và xúc động. Thứ nhất là người viết ít, có một anh lính, lại ở biên giới (cuối bài thơ đề biên giới ngày tháng năm, vả nhìn cái phong bì thì biết đích thị biên giới, bụi quăng quật đỏ lòm), mà làm thơ thì quý quá. Thêm nữa, tôi luôn yêu quý nâng niu người viết mới và trẻ, luôn kính trọng những anh lính viết văn. Vậy nên đăng ngay là điều không cần bàn cãi.

Một hôm tôi đang ở trên phòng làm việc thì vợ tôi lên gọi (nhà tôi ở khu tập thể liền ngay cơ quan) bảo về có khách, là chú bộ đội. Tôi hơi giật mình. Hồi ấy ở Pleiku có một đơn vị quân đội thu dung, rất quậy, nhiều người ngại. Thì cứ về xem sao. Một ông bộ đội đen nhẻm ngồi chờ. Quần áo đỏ bụi, tóc xoăn, mắt sáng, da đen. Giới thiệu em là Phạm Đương, trước học Đại học Tổng hợp Huế, có nghe tên anh. Em là bộ đội đóng ở Đức Cơ, hôm nay đi theo xe đơn vị về bưu điện nhận thư báo, tiện thể thăm anh vì trước khi đi bộ đội đã biết anh làm ở Ty Văn hóa Gia Lai Kon Tum. Ôi giời mừng quá, trưa nay ăn cơm với anh nhé, anh bảo vợ nấu cơm. Dạ thôi, em được có một tiếng rồi lại phải theo xe lên đồn. Lúc nãy chị cũng có nói rồi nhưng em không ở được. Là em có làm mấy bài thơ, gửi anh xem hộ. Ôi hay quá, với lính thì anh hết sức trân trọng. Dạ nãy chị cũng nói thế, bảo anh rất quý lính. À anh hỏi, có chú lính nào ký tên Hoa Thanh An cách đây mấy tháng có bài thơ in trên tạp chí mà gửi nhuận bút nó trả về, chú có quen không, thơ nó rất khá? Dạ, đấy là... em. Ôi giời. Ra là chú à? Ra là ông này khi ấy thấy cô gái xinh xinh tên là Hoa, bán quán ở vùng Thanh An, Chư Prông, bèn làm thơ rồi lấy luôn tên cô ấy làm bút danh... Ngay lập tức tôi “mượn” tiền của vợ trả nhuận bút bài thơ cho Phạm Đương, rồi lên cơ quan truy lĩnh sau vì nhuận bút trả về đã nhập quỹ.

Sau cú ấy thì chúng tôi thân nhau, không chỉ tôi, mà cả mấy nhà thơ ở Pleiku như Hương Đình, Phạm Đức Long nữa. Mỗi lần Phạm Đương về phố chúng tôi lại quấn quýt.

Lại nhớ hồi ấy Pleiku rất dữ, lính K lâu lâu về phố quậy rất kinh, chưa kể có hẳn một tiểu đoàn thu dung gọi là D5, đi đâu cũng súng, lựu đạn kè kè bên mình. Luôn sẵn sàng gây sự, kể cả với công an. Nên đa phần dân Pleiku cứ thấy lính K, lính biên giới là né.

Thì đương như thế, một hôm tôi với nhà thơ Hương Đình, lúc ấy là giáo viên cấp 3 Pleiku, đang đạp xe lơng tơng trên phố thấy một ông lính râu ria sậm sịt, da đen như củ súng, bộ quần áo lính cũ mèm đầy bụi đỏ kêu rối rít: Anh Hùng anh Hùng... Hương Đình ngoái lại rồi... đạp xe rất nhanh, tôi cũng thế, chạy thôi. Tránh voi chả xấu mặt nào. Ông lính kia cũng hổn hổn chạy theo, em đây em đây. Bình tĩnh lại thì là... Phạm Đương.

Bây giờ thì ai cũng là những tên tuổi của không chỉ Quảng Ngãi, mà cả nước. Nhà thơ Thanh Thảo thì không nói, bởi ông thuộc nhóm chiếu trên của làng thơ Việt lâu nay, cùng thế hệ với những Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Thu Bồn, Nguyễn Mỹ, Lưu Quang Vũ... cả một vệt ngân hà.

Phạm Đương thì là ủy viên hội đồng thơ hội Nhà Văn Việt Nam, từng ăn giải thưởng thơ quốc gia, là cây phóng sự lừng danh của báo Lao Động rồi Thanh Niên.

Nguyễn Đăng Vũ là ủy viên BCH Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, chuyên gia Lý Sơn và giờ là Ka Dong. Và đặc biệt như tôi nhắc ở trên, anh chụp ảnh rất đẹp, nhất là các chân dung thiếu nữ và em bé Ka Dong, tôi đang xúi anh tổ chức một triển lãm cá nhân. Lớp tôi, Văn K1 Đại học Tổng hợp Huế ấy, khá nhiều người tài, và giỏi, như nhà báo nhà văn, giám đốc, tổng biên tập các báo, nhưng tiến sĩ, giám đốc sở, rồi hiệu trưởng trường đại học, rồi lại chủ tịch Hội VHNT thì hình như... không có. Và anh vẫn là một tác giả uy tín.

Còn vài chuyện nữa về 2 ông đồng môn Nguyễn Đăng Vũ và Phạm Đương, nhưng đã hứa rồi, sống để dạ chết mang theo.




Không có nhận xét nào: