Thứ 2, lại là bài nhà cháu ở Reatimes, gốc Ở ĐÂY ạ.
Quê tôi ở làng Thế Chí Tây, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Nó là một trong 5 xã ven phá Tam Giang, được gọi là Ngũ Điền. Ngày xưa nhắc đến Ngũ Điền là nhắc đến một vùng 5 xã nghèo khổ khó khăn gồm Điền Hương, Điền Môn, Điền Lộc, Điền Hòa, Điền Hải. Thế Chí Tây là tên cũ của Điền Hòa. Mỗi lần từ Huế về quê có mấy đường gồm đường thủy, là đi đò từ bến Đông Ba, chạy xình xịch 4 tiếng về tới làng. Đò chật ních, sặc mùi thuốc rê và cá tôm. Đường bộ thì hoặc qua đò Vĩnh Tu, đọan này phá rộng, từ bên này sang bên kia bờ mênh mông cả cây số duềnh doàng sóng. Và đường nữa thì chạy dấn lên tận Phong Điền để qua đò Đại Lộc. Con đường này hết sức lồi lõm, chạy qua xã Phong Chương, đất đỏ và cát trộn lẫn, và tôi thấy vùng này còn nghèo hơn ngũ điền nhiều.
Đến một ngày, tôi
phát hiện, trời ạ, Phong Chương chính là quê danh tướng Nguyễn Tri Phương, một
trong hai tổng đốc người miền Trung từng tuẫn tiết vì thành Hà Nội.
Và không chỉ mình
tôi, nhiều người không biết đây là quê ông Nguyễn Tri Phương, không biết là mộ
ông cũng nằm ở đây. Và không chỉ ông, nơi đây còn hai ông nữa là Nguyễn Lâm, là
con trai Nguyễn Tri Phương nhưng là phò mã, tức con rể vua, và ông Nguyễn Duy,
em ruột Nguyễn tri Phương, cũng là một danh tướng, là công thần nhà Nguyễn.
Trước khi được điều
ra giữ thành Hà Nội cùng với con trai, cụ Nguyễn Tri Phương gần như là thanh kiếm
báu của triều đình nhà Nguyễn, được điều đi tất cả các nơi có biến. Thời ấy mà
dấu chân ông đã in từ Huế tới Biên Hòa, và sau đấy như chúng ta đã biết là
thành Hà Nội.
Và tại đây, ông đã
anh dũng hy sinh. Một cái chết lẫm liệt, oai hùng và bi tráng. Nên mãi mãi sau
này, mọi người vẫn nhắc đến 2 tổng đốc đã tuẫn tiết vì Hà Nội là Nguyễn Tri
Phương và Hoàng Diệu.
Nghĩ cũng kinh, cái
thời ấy, Pháp đã có súng, quân ta giữ thành bằng gươm giáo. Thế mà cầm cự, thế
mà oai hùng, mà bi tráng, lẫm liệt. Và cái chết là được dự báo trước. Nhưng cái
cách chết của cả 2 ông Hoàng Diệu Nguyễn Tri Phương khiến cả dân tộc phải bùi
ngùi và cảm phục đến tận giờ và mãi mãi về sau.
Vừa rồi về quê giỗ
mẹ, tôi rủ chú em tranh thủ một buổi sáng chạy sang viếng mộ cụ Nguyễn Tri
Phương. Chỉ mươi cây số chứ mấy, mà bao năm tôi có biết và có ghé thăm đâu, chỉ
chạy qua.
Và sang tới nơi thì
cứ luẩn quẩn mãi trong đầu 2 câu hỏi chưa gặp được câu trả lời, dù tiến sĩ Trần
Đình Hằng, quê làng Phong Lai sát cạnh đấy, phó viện trưởng viện khoa học xã hội
miền Trung, có hứa gửi tài liệu gốc cho tôi. Một là cách gì mà hồi ấy người ta
đã chuyển được thi hài cả hai bố con từ Hà Nội về quê Phong Chương để an táng.
Đây hẳn là một công việc cực kỳ kỳ khu và công kỹ. Giờ xe lạnh, hoặc là xe cứu
thương miễn phí của ông Đoàn Ngọc Hải mà cũng còn khó khăn, thế mà hồi ấy tuyền
đi bộ. Để thấy quyết tâm và sự tín nhiệm của triều đình cũng như uy tín của ông
đối với triều đình lớn như thế nào? Và hai là, làm sao mà một ông nông dân ở
vùng quê hẻo lánh như thế, sau khi đánh đông dẹp Bắc thì ra làm tổng đốc Hà
Thành, toàn người tài, toàn người mệnh danh “chả thơm cũng thể hoa nhài...”, và
thu phục nhân tâm đến thế, nhất là sau khi mới đây, một vị, tương đương tổng đốc,
giờ gọi là chủ tịch, là ông Nguyễn Đức Chung, vừa xộ khám.
Và cái cách mà ông
và con về quê an nghỉ cũng rất đáng suy nghĩ. Tôi nhớ, mới dăm năm trước, thì mộ
và nhà thờ cha con ông mới được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia, tức là
được quan tâm tu bổ, còn trước đấy, cứ im lìm lặng lẽ ở đấy. Và đấy cũng là lý
do rất nhiều người không biết là cụ Nguyễn Tri Phương đương nằm ở đây, dù Hà Nội
và các thành phố khác có rất nhiều con đường mang tên ông, nhiều đường rất to.
Mộ ông giờ nằm
khiêm tốn ở rìa làng. Dù vùng Thừa Thiên Huế nổi tiếng với... thế giới người
âm, với những “đô thị lăng mộ”, và quê ông cũng không ngoại lệ, thế nhưng lăng
mộ của cha con ông rất nhỏ, hoàn toàn không tương xứng với danh tiếng của một
danh tướng đầy công trạng như suy nghĩ của nhiều người và như thực tế đã diễn
ra. Nhưng tôi lại hết sức khâm phục về điều ấy. Ông đã trở về quê mình và khiêm
cung nằm đấy giữa dân làng, quê hương. Tuy vậy, cái cách mà người đang sống thể
hiện nơi đây thì lại khiến tôi băn khoăn. Một là con đường vào khu lăng mộ quá
nhỏ, hai xe gặp nhau là sẽ đối đầu chứ không tránh nhau được. Tức là nếu có du
khách đến chiêm bái, thắp hương tưởng nhớ bằng ô tô sẽ rất khó. Và nữa, cái việc
người ta dùng dây kẽm gai để “bảo vệ” mộ cụ thì nó lại giống như... giam nhiều
hơn là bảo vệ. Để ngăn bò vào phá thiếu gì cách, hoặc là trồng hàng rào chè tàu
như rất nhiều vùng nông thôn Việt đã và đang có, sẽ rất đẹp và thuần Việt, hoặc
là xây một vòng tường thấp, cũng chấp nhận được, hơn rất nhiều việc cắm cọc
chăng kẽm gai rất tạm bợ và chướng mắt, phản cảm. Bên trong thì cỏ lút cả bia
và mộ. Điều này có thể tạm chấp nhận bởi Huế đang là mùa mưa. Và thầy Thuận hiệu
trưởng trường Nguyễn Tri Phương của xã Phong Chương ngay lập tức rút điện thoại
chỉ đạo ngày mai giáo viên ra dọn cỏ. Bảo sao không huy động học sinh, trả lời,
việc này phải người lớn bác ơi, học sinh làm sao nổi. Nói thêm về trường này,
là trường khá nghèo, nhưng cũng có nhiều cố gắng để dạy và học. Hiệu trưởng kể,
trường mới làm một hệ thống nhà vệ sinh mới, và mấy tháng nay trường đang hết sức...
méo mặt vì phải trả tiền nước. Xí bệt nên mỗi lần dùng là tốn mấy lít. Trước
nhà vệ sinh xổm và đứng, dội nước, dội mỏi tay cũng chỉ mấy gáo. Giờ ai dùng loại
dội nước nữa, đã làm là phải bệt. Mấy
trăm học sinh, mỗi ngày mấy trăm lần xả nước, cuối tháng hóa đơn tiền nước về,
thầy méo mặt. Kể chuyện này chen vào để
thấy, làm gì cũng phải có... tiền.
Thôi không vào lăng
mộ viếng cụ được, bèn đứng ngoài hàng rào kẽm gai vái vọng trong mưa rồi quay
xe về nhà thờ cụ cách đấy mấy trăm mét.
Và, nhà thờ cũng chỉ
có thể đứng ngoài nhìn vào, vì cổng khóa kín. Thôi đành, chúng tôi quay về
trong mưa.
Và vẫn cứ thắc thỏm
trong lòng bao nhiêu câu hỏi?





Cổng nhà thờ cụ Nguyễn Tri Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét