Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2025

LẠI LẶT VẶT VỀ TRÀ...

 

Tôi thật ra, tự nhận mình là... ngưu ẩm, là cái cách nhiều người sành trà gọi người ngu ngơ trà như... trâu uống nước ấy. Vì uống trà thì có uống, nhưng bảo sành và tinh như mấy ông nhà văn nhà báo bạn tôi làm mỗi ngày 5 ấm thì... thua. Các ông thần trà này, vừa viết hay, vừa nghiện trà như... bò nghiện cỏ, như trẻ con nghiện... vú mẹ, mà lại uống rất hào hoa, đúng nhẽ, vừa uống vừa vận khí trời đất vào để trà thăng hoa và người... nhập địa, tức ngồi yên trên đất vận trà trên núi vân vân... Ơ nhưng mà nó lại như thế này, không cứ anh uống say bét nhè thì nói về rượu hay, cũng như thế, không chỉ cứ mỗi ngày uống nửa ký trà là độc quyền viết về trà hay. Cái anh không biết gì về trà, không uống trà, họ viết cũng thú vị phết. Như tôi, sành thì chưa, nhưng cũng... biết uống. Và quan trọng là, chơi với nhiều ông uống trà, lại chịu khó quan sát, chịu khó... tập uống, rồi cũng nghiện lúc nào chả hay, tất nhiên là nghiện kiểu mình, tự mình thấy thích.

Thế nên bèn, lại lặt vặt về trà.

Rằng, trà dùng để uống, tất nhiên rồi. Rất nhiều kiểu uống, cách uống, mỗi nơi mỗi kiểu, nơi nào kiểu nào cũng cho là mình ngon nhất, sành nhất.

Như ông nhà văn Nguyễn Quang Lập, ông không bảo là mình sành trà, nhưng nghiện trà thì cũng có hạng. Biết uống trà từ... nhỏ, là bởi lạnh quá. Ngủ chung với ba, sáng sớm là ông dậy uống trà. Dân miền Trung, khu bốn ấy, uống trà sáng sớm thành thói quen. Quê tôi bên kia sông Bến Hải, ở Huế ấy, nông thôn. Sau năm 1975 về quê, thấy các ôn các mệ dậy rất sớm uống trà. Họ uống trà B’lao, nấu một ấm to nước sôi rồi bỏ trà vào, xì xụp uống. Ông chú ruột tôi khi về quê lần 2, mang trà Thái với ấm chén kiểu Bắc vào, pha kiểu Bắc, bị chê. Nhưng giờ mỗi lần tôi về quê, trên xe có bộ đồ trà và trà Thái thì các em tôi ai cũng khen. Giờ, như đã nói, khi đã thông thương thì trà Bảo Lộc “B’lao”, trà Gia Lai “Bàu Cạn” với “Biển Hồ” chủ yếu để xuất khẩu làm trà đen, còn lại trong nước chỗ nào cũng trà Thái.

Trở lại chuyện nhà ông Nguyễn Quang Lập, cũng không biết ông cụ nhà ông uống trà gì hồi ấy, là ở Quảng Bình thời chiến tranh phá hoại ấy. Tôi nhớ khi ấy có loại trà chín hào ba, tức chín hào ba gói chứ không phải chín hào ba một gói, nhưng gọi thế cho oai, mẹ tôi được cấp để tiếp khách, tiêu chuẩn phó giám đốc nhà máy diêm Thanh Hóa. Thì ông Lập kể khi ông cụ thân sinh dậy pha trà uống thì ông... lạnh quá nên cũng phải dậy, ngồi bên bếp lửa, một “phong cách” chống rét khi ấy, và... uống trà với bố. Rồi quen.

Giờ ông uống trà như sau: pha một ấm đặc cắm tăm như chè xanh, xong rót ra mấy cái chén (ly) khoảng nắm tay trẻ em chứ không độc ẩm song ẩm nhỏ bé gì hết, mỗi người một chén như thế, rồi phích nước sôi dội thêm vào. Ơ kìa, nước rất đẹp và đậm vị, hương ngát, rất ngon.

Lại nữa, bác Nguyễn Tuân viết là, nước pha trà ấy, phải đun bằng hạt nhãn, hoặc quả phi lao, đại loại thế, rồi đợi nó sôi trào lên một lúc, rót thử xuống nền nhà đất nện mà thấy nước nó nổ xèo phát, bắn tung lên như thả hành khô vào chảo mỡ nóng thì mới pha trà. Một lão nhà báo cũng nghiện trà và yêu vợ, vợ anh yểu mệnh.  Sáng sớm nào  cũng pha một bình trà ngồi trước mộ vợ, anh gọi là bến Xuân, nói chuyện với vợ. Cả mấy năm rồi, cứ như vợ còn sống. Và ông này tuyên bố: Pha trà mà nước sôi quá là cháy trà, vất. Chỉ pha nước 80 độ thôi, mới tôn trọng trà, mới giữ được cái hương, cái vị của trà, trà mới là trà.

Thì lại cũng nhớ, cái hôm vào thăm cơ sở trà Tiến Yên, có các cô trà nương rất đẹp và duyên biểu diễn pha trà như múa. Tôi có thắc mắc sao không dùng cái siêu đồng mà nấu nước như các cụ xưa, cứ để sôi lục bục trên bếp hỏa lò như thế,  rồi pha cho nó vừa cổ kính đúng chất trà, vừa giữ độ nóng. Thì được giải thích đúng như ông nhà báo trên kia, rằng rót vào phích cho nó giảm bớt nhiệt độ đi. Có điều tôi vẫn ấm ức vì cái phích vỏ nhựa hôm ấy nó phá mất cái “hào khí trà” đi.

Và ngay bộ đồ trà, tức ấm chén các cái, thì cũng không phải giống nhau hoàn toàn. Mỗi ông mỗi kiểu, vầ tất nhiên, ông nào cũng bảo của mình mới đúng. Ông Hoàng Anh Sướng có cái “hiên trà” mà vào đấy ngồi nó như lạc vào mê cung, xem ông pha xong trà thì có khi quên uống. Vào phòng của ông nhà thơ Hữu Việt ở báo Nhân Dân, người chuyên cung cấp cho tôi trà Đinh hàng Điếu, thì ông phải kêu ông nghệ sĩ nhiếp ảnh Hồng Vinh tới pha nó mới đúng điệu chứ ông cũng... chưa tự tin lắm để khiến tôi hoa mắt, là ông bảo thế, chứ quả là tôi, người trần mắt thịt, cũng mới bị trà Thái khuất phục gần đây thôi.

Một hôm tôi đang lang thang Hà Nội, ông bạn cũng nhà báo gọi giật: ông đang chỗ nào tôi tới tặng ông cái ấm Tử Sa. Và rồi y say sưa giải thích cho tôi cái ấm này nó khác cái ấm, cũng Tử Sa, tôi đang dùng ở nhà thế nào.

Ấm Tử sa Tây Thi bạn tặng.
 

Té ra là ông ấy xem facebook tôi, nghe tôi kể cái ấm Tử Sa của tôi bị vỡ nắp. Anh chàng bán ấm và chơi trà nổi tiếng ở Pleiku, Tâm Việt Trà ấy,  người bán cho tôi cái ấm ấy, hốt hoảng bảo tôi, hốt cho hết từng mảnh nắp ấm vỡ để anh ấy xử lý. Và lạ chưa, một tuần sau, anh ta “vá” cho tôi cái nắp ấm lành lặn dù nó vỡ phải tới mười mấy mảnh. Nghe kể anh ta hàn rất kỹ công, bằng những loại phụ liệu gì gì đấy, có cả bạc hay vàng thì phải.

Thế nhưng ông bạn này bảo, ông không thể uống cái ấm vỡ nắp như thế, nó phí... trà đi. Phải dùng cái này. Tôi đang dùng và tặng lại ông.

Nó là cái ấm Tử Sa Tây Thi. Trời ơi là nó đẹp và quyến rũ, nhất là cái... nắp ấm, chính xác là cái núm nắp ấm, nó như cái nhũ hoa của thiếu nữ. Thôi tôi chả tự tả nữa, trích từ giới thiệu của giới trà đạo vậy: “Thân ấm hình tròn đầy đặn, làm ta liên tưởng đến dáng vẻ uyển chuyển của người con gái xinh đẹp tuyệt trần, các đường nét cũng vô cùng mềm mại và tinh tế. Quai ấm có độ cong uyển chuyển đẹp mắt, độ dài vòi ấm vừa vặn giúp ổn định tốc độ rót và cho ra dòng nước trà nhẹ dịu, thơm ngọt. Phần nắp ấm tròn trịa có hình dáng gần giống với nhũ hoa của người thiếu nữ đẹp, chính vì vậy mà một số nghệ nhân thưởng trà còn ưu ái gọi dáng ấm này với cái tên vô cùng mỹ miều là “ấm Tây Thi Nhũ””.

Có ấm phải có chén (ly), chú em cũng nhà báo gọi ngay ông chủ “Tâm Việt trà” ở Pleiku, một người trẻ nhưng chơi trà rất sành và kỹ, mang cho tôi 4 cái chén xịn nhất trong “thế giới phụ kiện trà” của cửa hàng anh ta, tất nhiên bạn nhà báo... trả tiền.

Hôm nọ tôi có kể trên facebook là, giờ có cái thú, trước khi ngủ làm một bình trà Thái đặc, uống đủ  3 nước thì ngủ, và ngủ rất ngon, vừa ngủ vừa chép miệng, và lúc ấy cái vị của trà nó mới tràn đầy giấc ngủ, ngủ được rất sâu. Nhiều người comment vào thán phục lè lưỡi, bảo thần kinh tôi tốt. Thì, biết làm sao, được cái này thì mất cái kia. Tôi không thể uống trà buổi sáng. Buổi sáng phải ăn sáng xong mới uống cà phê với chè xanh hoặc nước vối. Và tôi nhìn mấy ông buổi sáng chưa ăn gì đã làm một ấm trà đặc bằng cái nhìn kính nể và kinh sợ. Và cũng chỉ mới nhìn thôi, dạ dày tôi đã thổn thức, đầy tư thế chuẩn bị... trào ngược.

Thì thế mới bảo, muôn hình vạn trạng trà, chả ai giống ai. À có giống, giờ ai cũng công nhận trà Thái ngon, và cái câu “Trà Thái gái Tuyên” là chuẩn không cần chỉnh. Nhưng là nói thế, đi vào thế giới trà Thái ấy, cũng khối chuyện, và khác nhau nhiều lắm. Ngay các ông bà thần trà sở tại, thì mỗi ông bà cũng chỉ tuyển riêng cho mình một thương hiệu trà Thái riêng. Nó không chỉ là do cách chế biến, do kỹ thuật, mà nghe nói, ngay một quả đồi, phía này với phía kia chất lượng đã khác nhau.

Cũng như có ông bảo pha trà phải uống ngay, để lâu nó thành trà ngâm. Ơ kìa, các quán “chè chén” Hà Nội ấy, toàn trà ngâm chứ. Họ pha trong ấm tích dùng để hãm chè xanh ấy, để trong giỏ ủ, ai gọi thì rót ra cốc, cốc chứ không chén, ly, khách thu lu uống. Và vẫn ngon.

À nữa, lên Thái Nguyên rồi, tôi mới biết, trà đâu chỉ để... uống. Còn ăn được. Tôi dự một cuộc tiệc mà nhiều món được chế biến từ... trà. Tất nhiên, cũng giống như Huế có món ăn cung đình toàn muối, tới mười mấy món, cụ thể thực đơn “muối” như sau: 1/ Muối tiêu. 2/ Muối trắng. 3/ Muối mè. 4/ Muối ớt tươi. 5/ Hành muối. 6/ Kiệu muối. 7/ Muối đậu. 8/ Muối sả. 9/ Muối tôm. 10/ Dưa muối. 11/ Cá rô um muối. 12/ Muối ớt bột. Mười hai món muối khi ăn được diễn dịch như thế này: Tôm hấp dừa chấm muối tiêu. Cháo hoa ăn muối trắng. Sắn luộc chấm muối mè. Thịt nướng chấm muối ớt tươi ăn kèm hành và kiệu muối. Cơm nắm mo cau chấm muối đậu. Cơm gạo tám ăn với ruốc tôm..., thì thực đơn tiệc trà cũng gần gần như thế. Tức là người ta không ăn trực tiếp lá trà, nhưng chế biến trà vào làm hương vị có, nguyên liệu có, như nem, nộm, bánh cuốn, các loại bánh, kem tráng miệng... Phải hiểu trà lắm, yêu trà lắm, trân trọng trà lắm, mới sáng tạo ra những món gọi là độc đáo sang trọng cũng được, mà dân dã cũng được. Thì dân gian, đã từng dùng lá chè làm phụ liệu chế biến nhiều món, như kho cá, rang tôm, rồi giờ sáng tạo thêm các món cho giới trẻ như trà sữa, macha, kem trà vân vân...

Và cái chuyến đi Thái Nguyên thưởng trà về ấy, tôi nghĩ về trà như thế này, bằng thơ, tất nhiên, khi tôi là nhà thơ:

NÕN ĐÊM

rờn xanh dịu dàng hương cốm

Thái Nguyên mướt mưa

thấp cao hàng và rãnh

miên man từng thảm chân dài

 

nước sôi chừng đủ

hương vừa em

trà thấm độ

những vòng môi cong

tiếng xuýt xoa đẫm mắt

 

như lạc lối

nhầm cửa thiên đường

cửa nào em

trà một tôm

miền lá nõn

 

về

một mình một ấm

đêm thiền nỗi

rười rượi xanh...

 

về

một đêm một nõn

tôm chè

đinh.

Văn Nghệ Thái Nguyên số đặc biệt về trà.


 

 

Dáng... trà, he he.

 

 

 

 

Không có nhận xét nào: