Có một dạo người ta rất thích phóng đại từ văn hóa, cái gì cũng gắn cho văn hóa, làng văn hóa ấp văn hóa thôn văn hóa gia đình văn hóa công sở văn hóa trường học văn hóa vân vân. Rồi văn hóa rượu cần, văn hóa cồng chiêng, văn hóa tượng mồ... Tôi từng là thành viên trong ban chỉ đạo văn hóa cấp tỉnh, có lần họp tôi tẩn mẩn hỏi: thế có gia đình nào không văn hóa không? Và những cái giấy chúng ta cấp đây, họ để đâu cho hết?
Nhà
rông văn hóa ra đời sớm hơn các loại văn hóa tôi vừa kể.
Chả
biết từ đâu nó có hẳn những quy định rất cụ thể để cái nhà rông
của dân làng thành thiết chế văn hóa.
Nó tồn tại một thời gian khá dài, phải
vài chục năm rồi mới từ từ... im lặng. Im lặng chứ không biến mất,
mà nó vẫn dầm sương dãi nắng ở chùm ảnh tôi đăng kèm bài này.
Nó
"chết" là bởi mấy lý do chính sau, là chỉ nói tới giá trị
sử dụng chứ chưa nói tới yếu tố tâm linh mà vì nó, các làng đều
phải cố gắng bằng mọi giá để làng mình có ngôi nhà rông và coi nó
là trái tim của làng.
Nhà
rông đa phần là sàn le hoặc nếu bằng ván gỗ thì có rất nhiều kẽ
hở. Các kẽ hở ở sàn có rất nhiều công dụng. Chống rệp, gõ thật
mạnh rệp rơi xuống dưới sàn hết. Chân đất bước lên rất sạch. Uống
rượu cần nước (bắt buộc phải sóng sánh ra ngoài) rơi xuống sàn,
không đọng lại và khô ngay. Hút thuốc tàn có chỗ rơi, nhổ (bà con
rất hay nhổ vì thói quen và cũng vì hút thuốc rất nặng) xuống kẽ,
ăn uống bỏ xương rơi xuống vân vân...
Cái
nhà rông văn hóa không có những điều ấy.
Không
có chỗ để bếp lửa. Khi vào làm ở khu du lịch Một thoáng Việt Nam,
việc đầu tiên tôi yêu cầu là đốt lửa 24/24 ở cái bếp của nhà rông
đã có sẵn ở đấy. Nó có rất nhiều tác dụng. Việc này thì người
Việt ở nông thôn cũng làm, và cả thế giới làm khi mà đã có triết
gia cho rằng là Promete là vị thần đầu tiên tuẫn tiết trên tấm lịch
triết học. Nhà rông văn hóa không thể có bếp lửa, nó không có
trong... danh mục thiết chế. Cái bếp trong nhà rông truyền thông nó
hết sức kỳ công và cả... bí ẩn, không phải ai cũng có thể làm, nó
có nguyên tắc có quy chuẩn để trên cái sàn bằng le ấy, cái bếp cháy
suốt ngày đêm, đượm và ấm, rất nhiều lúc không có người trông, mà
không cháy lan, mà tự tắt khi không có người chăm sóc, tro than vun vào
một chỗ rất gọn.
Quan
trọng hơn, cái nhà rông văn hóa ấy, nó không của làng nào cả.
Nhớ
lần đầu tiên tôi đi công tác ở Đăk Glei, giờ thuộc Kon Tum, hồi cuối
năm 1981, mới lên Tây Nguyên nhận việc. Đi nửa ngày trong rừng thấy một
cái nhà, chính là trường học, trơ trọi giữa thung lũng, xung quanh
chả có làng có dân gì, mà trường này là của 3 làng. Khi hỏi sao
không làm ở một làng nào đấy cho ấm cúng, các cô đỡ sợ, hồi ấy
còn hoang vu lắm, có cả fulro nữa, và người Jẻ Triêng thì có tục
thiên táng, người chết họ mang xác gác lên cây. Mà bất cứ chỗ nào
có cây là đều có thể là nơi gác xác. Mà thời ấy rừng miên man mù mịt,
rất dễ bước chân ra là gặp... xác, các cô giáo giải thích, bà con
Tây Nguyên chỉ "xài" cái gì của làng mình, không thì chia
đều. Nếu đưa trường về một làng, thì 2 làng kia không cho con tới
học, nên phải chọn một địa điểm chia đều. Thế nên buổi tối khi học
trò về hết, trường còn trơ trọi 3 cô. Mà đến làng gần nhất là... 2
tiếng đồng hồ. Sợ thì phải chịu, biết làm sao giờ?
Vậy
nên cái nhà rông văn hóa, cuối cùng lại của mấy ông bà cán bộ xã.
Tôi
chứng kiến từ đầu việc người ta làm cái nhà rông văn hóa ở xã Ayun,
huyện Mang Yang, nơi có làng Bông (Plei Bông). Đây là làng của ông họa
sĩ Tây Nguyên nổi tiếng. Ông họa sĩ Xu Man này từng là ủy viên ban chấp
hành hội Mỹ thuật VN 2 khóa, học hội họa ở Hà Nội, từng đi nước
ngoài, nhưng về hưu là về làng ở. Và tất nhiên ông được vời vào làm
cố vấn cho việc làm nhà rông văn hóa cho xã ông. Nó cách làng ông
không xa, nhưng khi làm xong thì ông không bao giờ đặt chân lên ngôi nhà
rông ấy, dù có lần chúng tôi mời ông ra đấy để phỏng vấn về... nhà
rông. Cạnh nhà ông, ở làng ấy, có ngôi nhà rông truyền thống, và bà
con vẫn sinh hoạt ở đấy như xa xưa từng vậy.
Lại
còn cái món tặng nhau nhà rông. Tỉnh Gia Lai Kon Tum thời khó khăn
nhất, để tỏ lòng yêu mến thủ đô, đã tặng Hà Nội ngôi nhà rông ở
công viên Lê Nin. May sao, xin lỗi nếu tôi quá lời, nó cháy, chứ nếu
không nó rất chỏi giữa thủ đô. Và sau đấy Hà Nội cũng tặng lại Gia
Lai một ngôi nhà rông, chính là cái nhà rông xã Gào đăng kèm ở bài
kỳ trước.
Tức
là, bằng việc làm hệ thống nhà rông văn hóa ở Tây Nguyên thời ấy,
người ta đã bứng nhà rông ra khỏi không gian của nó, biến nó thành
một một cái vỏ nhà vô hồn mang dáng dấp nhà rông. Và nó chết yểu.
Người
đầu tiên khiến nó chết yểu chính là ông Sô Lây Tăng, bí thư tỉnh ủy
Kon Tum tôi nhắc ở kỳ trước. Sau cái hội thảo về nhà rông, tỉnh ủy
Kon tum có hẳn một cái nghị quyết về việc giữ gìn bản sắc nhà rông
truyền thống (tôi không nhớ nguyên văn tên nghị quyết như vốn dĩ lâu
nay), trong đó ý chính là, ủng hộ và tạo điều kiện cho bà con từng
làng làm nhà rông truyền thống, nhà nước hỗ trợ một phần như tạo
điều kiện khai thác vật liệu từ rừng, giúp một phần kinh phí, nhà
nước không can thiệp vào việc làm nhà rông của bà con, nôm na là, nhà
của người ta có hàng vạn năm rồi, kệ người ta làm, anh đừng dây máu
ăn phần, đừng tham gia... thiết kế rồi ăn phí thiết kế, chưa kể rồi
làm ra những cái thứ nhà chả giống ai, chả ai sử dụng, hay chính
xác là chủ thể của đề án là dân làng thì họ không vào những cái
nhà rông ấy, mà vẫn sinh hoạt ở những cái nhà rông xiêu vẹo cũ kỹ
của làng.
Nhưng
đấy là chỉ tỉnh Kon Tum làm thế, còn các tỉnh, còn bộ, họ vẫn
làm...
(Còn
tiếp).
Bài đăng trên tạp chí du lịch HCM
Ảnh này của NSNA Hồ Anh TiếnNhà rông văn hóa làng Bông, xã Ayun, Mang Yang, Gia Lai
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét