Hồi mới lên Tây Nguyên, tôi hay mò về làng. Một mặt nó như đi chơi, chứ hồi ấy cũng chưa có ý thức nghiên cứu tìm hiểu gì, nhưng cái chính, nó giải quyết cái sự... đói. Về làng được ăn no hơn, có rượu cần uống, giỏi còn có được ăn thịt gà nữa. Tất nhiên là không ăn không, mà biết cách trao đổi, ví dụ như vải, nhất là vải đỏ (món ở Ty Văn hóa thời ấy rất nhiều), thuốc lá, cá khô... chuẩn bị sẵn mang theo.
Và trong một chuyến về như thế, tôi chứng kiến một vụ... tự tử.
Hôm ấy làng bắn được con heo rừng, chia đều cho mọi nhà. Anh này ở rìa làng, hình như dân ngụ cư hay thế nào đấy, được chia miếng thịt nhưng anh ấy cảm thấy miếng của mình ít hơn của người khác. Thế là tự tử.
Té ra với người Tây Nguyên, chết không phải là hết, mà chết
là sự bắt đầu, nó sẽ tái sinh ở cõi A tâu. Nên mọi người rất hay tự tử, chả có
lý do gì cũng tự tử. Bởi họ tin sẽ sang bên kia, có lẽ công bằng, có hạnh phúc,
có những thứ mà ở cuộc đời này không có...
Tôi thì nghĩ là, họ sống ở cuộc đời này khổ quá, chết có khi sướng hơn. Ngay
bây giờ thôi, động tí là họ tự tử. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy từng có hẳn một công
trình nghiên cứu về chuyện người dân bản địa Gia Lai hay tự tử.
Trở lại cái anh chết tự tử kia.
Mọi người để anh nằm đấy và ăn uống nhảy múa, rất vui vẻ (là tôi thấy thế). Thi
thoảng có người cầm miếng thức ăn đến quẹt vào miệng anh ta, ý là cho anh ăn.
Là bởi họ nghĩ anh ấy mới nằm đấy nghỉ ngơi, chứ chưa chết. Phải đến khi làm lễ
bỏ mả thì mới chết hẳn, mới sang thế giới người âm. Vì thế, bây giờ và ba bốn
năm nữa, anh này vẫn thường xuyên được "thăm nuôi", hàng ngày mọi người
vẫn mang cơm nước ra mộ bón cho anh ta ăn, qua 1 cái lỗ thông hơi trên miệng
quan tài. Ngoài ra khi mang đi chôn, anh ta vẫn được chia của cải, tất nhiên những
đồ được chia, vì nó là của người chết, nên được làm cho hỏng đi, như chiêng,
ghè thì đục thủng, các thứ khác cũng làm cho méo cho dẹp đi...
Lẽ ra thì anh này "được nằm" cả tuần kia, cho dân
làng ăn uống no say càng lâu càng tốt, nhưng có đoàn công tác chúng tôi nên xã
vận động gia đình chôn sớm. Và gia đình chấp thuận.
Anh này được đưa ra khu nhà mồ, chọn cái mộ của gia đình, là một cây gỗ đã đục
bộng bên trong. Người ta mở nắp cái quan tài nguyên cây rất to ấy ra, và... bên
trong đã có 2 xác, có một xác mới chôn mấy tháng.
Tôi suýt nôn tại chỗ vì cái mùi xộc ra từ quan tài. Lùi ra mấy bước tôi lấy
khăn mùi xoa nhúng vào nước rượu cần rồi khéo léo kẹp vào tay che mũi, và lại
xán vào, bởi tôi biết, sẽ hiếm khi nào được chứng kiến lại, và đây chính là
cách để tôi tiếp cận Tây Nguyên, là cách mình nuôi vốn sống. Tiếc là hồi ấy
chưa có máy ảnh.
Họ đặt anh này vào, nhưng không đủ chỗ vì thế anh ta cứ vồng
lên trên quan tài. Lại lôi ra rồi 2 người nhảy vào quan tài... nhún. Nước từ
cái thi thể mới chôn phòi ra, xẹp bớt đi, và người ta lại cố gắng nhét anh này
vào. Và sau nhiều loay hoay thì anh ta cũng nằm trọn vẹn được trong ấy. Như thế
là trong cái quan tài ấy hiện có 3 xác người cùng huyết thống hoặc trong cùng
gia đình, chắc là đầy rồi, sẽ không bỏ thêm ai nữa, chỉ chờ bỏ mả thôi. Nhưng
không phải, sau tôi hỏi chuyện một người già, ông ta bảo: để thời gian nó xẹp
đi, mình lại cho thêm người mới vào được mà! Càng đông càng vui mà. Ra thế.
Và tôi để ý, những người vừa khiêng vác, vừa nhét người vào quan tài kia, họ lại
tiếp tục bốc thức ăn ăn, như chưa từng làm việc ấy. Không chỉ thế, họ còn bốc
đút cho người khác. Và không ai được nhè ra. Sau này tôi có quen một bác người
Giẻ Triêng, bác này cũng hay nhậu tê tê rồi bốc thức ăn bỏ vào mồm khách, bắt
ăn bằng được. Có ông phải nhè ra vì miếng thức ăn to quá, trong khi ông quan niệm,
miếng càng to càng quý khách. Có lần ngồi với ông anh Đỗ Quang Hoàn, nhà báo từng
thường trú ở Gia Lai, nhắc lại, ông Hoàn kể rất nhiều người, toàn tây học, trí
thức, hàm vụ trưởng thứ trưởng... sửng cồ với ông này khi bị nhét thức ăn như
thế. Nhưng thực ra đấy là phong tục hiếu khách của người Tây Nguyên. Vì ăn bốc
từ nhỏ, nên người Tây nguyên bốc rất khéo, và nhét vào mồm cũng rất khéo...
Thì ở đây tôi cũng xơi mấy nắm thức ăn, có cơm, có thịt, có lá mì, đầy mồm. Bà con ở đây có vài món chín, còn lại là những món khá khó ăn, như thịt bạc nhạc băm nhuyễn rồi trộn với dịch ruột non, tiết... thành một thứ lệt xệt, hay những miếng thịt gói vào lá gì ấy, rồi vùi trong tro ấm, chỉ tro ấm chứ không than, khi mở ra miếng thịt chỉ hơi âm ấm...
Sau này, mới cách đây hơn chục năm chi đó, nhớ có cuộc họp,
chị Xuân La, Nghệ sĩ nhân dân, khi ấy là đại biểu HĐND tỉnh, cũng kể lại việc
chị chứng kiến một cuộc người ta “chôn chung” như thế khi về làng giám sát. Chị
là người Hre Quảng Ngãi nhưng cũng lần đầu tiên thấy việc này. Thì ra nó cũng
bình thường như một số vùng người Kinh có tục bốc mả vậy.
Một thời, tôi đã lăn lộn dưới làng, ăn như thế, uống như thế, và cái hay là,
không đau ốm gì. Tất nhiên trong túi luôn có Tetraciline hoặc cloxit, loại
kháng sinh thời ấy, đắng đến nôn ọe. Thế mà một lần tôi đã cứu 1 cháu bé 7 ngày
tuổi bằng chính cloxit ấy, nếu không có viên thuốc tôi nghiền nhỏ rồi vắt
sữa mẹ nó vào dốc cho nó lúc nửa đêm ở cái làng biên giới xa xôi ấy, đứa bé chắc
chắn chết vì mất nước, vì cứ 5 phút nó lại xoẹt một lần, tôi nằm mà xót ruột,
và sau khi hội ý với mấy sư phụ Tô Ngọc Thanh, Phạm Hùng Thoan... tôi đã
dậy cho cháu uống như thế, và như một phép tiên, nó cầm sự đi lỏng như nước, và
sáng sau ngủ như chó con... Té ra vì bà con ít dùng thuốc, nếu không muốn nói
là chưa bao giờ, nên giờ cho uống thuốc gì cũng rất dễ khỏi. Tôi đã nhiều lần
làm bác sĩ bất đắc dĩ, và cũng thành công là vì thế...
Bây giờ thì chắc chắn chả còn đâu những việc ấy.
2 nhận xét:
Cái món cứu người trong hoàn cảnh bất đắc dĩ ấy thật là liều, cụ nhỉ?
Vầng huhu, và đã thành công á. Chắc người ta chưa bao giờ gặp thuốc nên nó hiệu nghiệm hihi
Đăng nhận xét