Tôi
rất thú vị với câu hỏi của một anh bạn đồng nghiệp: Theo anh, giờ làm sao để
Tây Nguyên còn... nguyên.
Tôi
vừa về thăm lại làng S'tơ, K'bang, Gia Lai, nó chính là cái làng Kông Hoa trong
tiểu thuyết "Đất nước đứng lên" ấy. Trời ạ, cứ miên man đi giữa trưa
nắng giữa cái cánh đồng chang chang thế, đi miết đi miết đến lúc có người reo
lên: Chỗ ngày xưa ông Núp đặt bẫy đá đây. Thì nó cũng chỉ là một... bãi đất trống.
Ngọn Konkaking đã kịp trọc gần tới đỉnh, nhìn như một cái đầu cắt vụng, dẫu tít
trên cao, gần trưa mà sương mù vẫn như một vành khăn e ấp trên cái cổ ngấn cao
thiếu nữ. Quả là, dẫu ở đất này khá lâu rồi, từ hồi làng S'tơ được chọn là làng
điểm, người ta điều máy cày, kéo điện về cho dân làm lúa nước tôi đã đến đây, hồi
ấy phía sau làng vẫn um tùm rừng, chiều thơ thẩn buồn, tôi cũng chỉ dám mon men
ra cái con suối, hình như tên nó là Chơ Pâu, nơi nghe nói ngày xưa ông Núp nhận
cái cong tỏ tình của Liêu, chứ qua bên kia suối là điều tôi chưa bao giờ dám
nghĩ tới, bởi nó là một thế giới khác, thế giới rừng.
Người
Tây Nguyên sống gắn với rừng. Làng ở trong rừng, tất nhiên chỗ làng chọn để sống
thì nó là rừng thưa. Một đám rừng được dọn sạch, hoặc là nó đã sạch sẵn, gần suối,
có nước. Thế là người ta chọn làm làng. Làng Tây Nguyên nhỏ, chừng mươi lăm nóc
nhà. Xung quanh là rừng liền kề, nó như "vườn" của người, họ vào đấy
làm rẫy, lấy mật ong, săn bắn... với những điều luật rất nghiêm ngặt để con người
và rừng chung sống hài hòa với nhau. Tầng ngoài cùng là rừng già, là thế giới của
thần linh, của Yang, con người không được vào. Đấy là một thế giới hết sức u
minh bí ẩn... Già làng là người quyết định tất cả mọi chuyện của làng, mà chuyện
quan trọng nhất của làng chính là... quan hệ với rừng. Có những điều luật hết sức
chặt chẽ để con người và rừng không phạm vào nhau như không chặt cây non, không
bắt thú chửa, không đốt ong mà chỉ xua chúng đi để lấy mật. Hàng ngàn năm tồn tại,
sống dựa vào nhau, con người và rừng tạo thành một mối quan hệ tương hỗ bền chặt,
vị tha và nhân bản. Và từ cuộc sống nương tựa vào rừng ấy, người ta hình thành
một nền văn minh và văn hóa rừng, mà những món thịt nướng ống nứa, cơm ống nứa,
rau ống nứa, thịt gác bếp, gà nướng than... đang thịnh hành hiện nay trong các
nhà hàng, rồi các nhạc cụ từ nứa, bầu như T'rưng, Klong Pút, K'ní, Goong,... là ví dụ.
Lâu lâu rồi, tôi viết một cái bút
ký "Biển của một thời", nhắc tới việc biển từng ở... Tây Nguyên. Cũng
nhắc tới chuyện từng xúi một cháu sinh viên đại học rất thích sử thi Tây
Nguyên, làm luận văn thạc sĩ về sử thi Tây Nguyên, rằng cháu làm đề tài
"Yếu tố biển trong sử thi Tây Nguyên" đi. Ban đầu cháu trợn mắt ngạc
nhiên, đến khi nghe tôi ngồi nói cả buổi về việc này, rằng tại sao lại như thế,
thì cháu lại hết sức hớn hở, và đăng ký. Nhưng rồi chính hội đồng khoa học lại
bác đề tài của cháu: Không thể được, làm gì có chuyện Chạch đẻ ngọn tre thế.
Biển là biển, Tây Nguyên là Tây Nguyên, lẫn lộn thế nào được. Cháu phải chọn đề
tài khác. Và khi bài báo ấy ra đời, một số bạn đọc thắc mắc là, tại sao lại có
thể như thế. Thì đây, mới mấy hôm trước, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra rằng
là, ở Gia Lai có hóa thạch cúc đá, là tên một nhóm các loài sinh vật biển thân mềm đã bị tuyệt diệt từ khoảng
200 triệu năm trước.
Thế
tức là, trước khi Tây Nguyên gắn với rừng, thì nó là... biển.
Và bây giờ thì, biển cách Tây Nguyên vài trăm cây số. Rừng thì... đang hết.
Thế Tây Nguyên còn gì?
Còn cái tên.
Như đã nói, toàn bộ đời sống của người Tây Nguyên là gắn với rừng, nó tạo nên một văn hóa rừng. Nhưng giờ, văn hóa ấy đang bị lao đao.Bởi rừng không chỉ là gỗ. Nó là kết tinh của kinh nghiệm sống của con người từ rừng, phản chiếu ở rừng, và ứng xử với rừng. Nó chính là văn hóa, là sự kết giao giữa rừng với con người, nó gắn chặt với con người Tây Nguyên từ đời này sang đời khác, làm nên một bản sắc văn hóa, một văn minh rừng thông qua hệ thống luật tục với rất nhiều điều lý thú và bổ ích mà những con người sống cùng rừng chết cùng rừng tự nguyện làm theo.
Và bây giờ thì, biển cách Tây Nguyên vài trăm cây số. Rừng thì... đang hết.
Thế Tây Nguyên còn gì?
Còn cái tên.
Như đã nói, toàn bộ đời sống của người Tây Nguyên là gắn với rừng, nó tạo nên một văn hóa rừng. Nhưng giờ, văn hóa ấy đang bị lao đao.Bởi rừng không chỉ là gỗ. Nó là kết tinh của kinh nghiệm sống của con người từ rừng, phản chiếu ở rừng, và ứng xử với rừng. Nó chính là văn hóa, là sự kết giao giữa rừng với con người, nó gắn chặt với con người Tây Nguyên từ đời này sang đời khác, làm nên một bản sắc văn hóa, một văn minh rừng thông qua hệ thống luật tục với rất nhiều điều lý thú và bổ ích mà những con người sống cùng rừng chết cùng rừng tự nguyện làm theo.
Và
văn hóa Tây Nguyên, làng Tây Nguyên, con người Tây Nguyên đã hình thành, tồn tại
và phát triển song hành trong sự tồn tại và phát triển của rừng như thế. Nói đến
làng Tây Nguyên mà không nói tới rừng là chưa thành làng. Nó gắn quện, nó hỗ
tương, nó tạo nên hẳn một nền văn hóa lấy rừng làm đối tượng để mà thờ cúng và
tôn thờ. Sau này chúng ta định cư, nhiều làng
của người Tây Nguyên bị bứng khỏi rừng, vì nhiều lý do, và những ngôi
làng đều tăm tắp như thế nó mất hẳn cái hồn cái cốt của làng, mất hẳn sinh khí,
sự hiền hòa đáng yêu vốn có. Và ngay cái việc UNESSCO phong tặng di sản văn hóa
phi vật thể cho cồng chiêng Tây Nguyên cũng đâu có phải là cho riêng cồng
chiêng, mà là cho không gian văn hóa ấy, mà không gian văn hóa của Tây Nguyên,
của cồng chiêng, chính là làng và rừng, làng gắn với rừng.
Cũng
phải rạch ròi chuyện này, ấy là không thể không phát triển. Ưu tiên hàng đầu của
các chính sách phát triển của chúng ta là chăm lo cho dân ấm no, là sự tăng trưởng
xã hội. Bà con Tây Nguyên không thể bây giờ vẫn tiếp tục đốt lửa xà nu thay điện,
không thế cứ đóng khố nghễu nghện ngoài đường, không thể không cho họ chơi Ghi
ta, organ, piano mà cứ phải chiêng, Klong Pút, T'rưng vân vân... Nhưng có vẻ
như sự phát triển của chúng ta nóng quá, rừng bị "hy sinh" nhiều quá,
sự hy sinh so với sự phát triển nó quá lớn, nó rơi vãi hết. Nói rơi vãi nhưng
cái phần rơi vãi mới là phần chính, tức nó làm giàu cho một số người, một bộ phận,
còn chủ nhân của rừng, là những người dân bản địa, là đất nước, có vẻ như chả
thu hưởng bao nhiêu.
Rồi
những chính sách, không loại trừ ra đời để có lợi cho nhóm cho cụm nào đấy, bức
tử rừng còn hơn hỏa hoạn, như vụ chuyển đổi hàng ngàn héc ta "rừng
nghèo" sang trồng cao su, để giờ, cao su thì không lên được, mà người thì
mất, cán bộ đi tù, và rừng thì, dẫu nghèo cũng đã mất. Mà rừng, có bao giờ
nghèo đâu, bởi như đã nói, rừng không chỉ là gỗ. Nó là cả một hệ sinh thái với
tầng tầng lớp lớp sự sống, nó còn là cái bể chứa nước khổng lồ trữ nước, điều
hòa sinh thái cho cả khu vực. Và nó là văn hóa.
Kể
chuyện này để nhớ một thời ấu trĩ.
Thời
tôi mới lên Tây Nguyên, những năm tám mươi của thế kỷ trước, có lệnh trồng sắn
cứu đói (Chắc mang kinh nghiệm từ Bình Trị Thiên vào, hoặc từ chiến tranh ra).
Toàn dân Gia Lai – Kon Tum đi phát rẫy trồng sắn. Phát rẫy thực chất là... phá
rừng. Nhà nước cho xe sang Đăk Lăk nhận hom về. Đăk Lăk cũng đâu sẵn hom, phải
gom từ cơ sở lên, tập trung được về một chỗ cũng mất cả tuần rồi. Xe Gia Lai
sang nhận, chở về. Lại sức xuống huyện, huyện sức xuống xã, xã xuống làng... đi
ngược lên nhận hom sắn về trồng. Mà thời ấy giao thông đâu như bây giờ. Kết quả
khi hom sắn về tới rẫy thì số thành củi chiếm quá nửa. Số còn lại thì quặt qoẹo
các kiểu, nên sắn củ nào củ ấy dài như... củ mài. Cán bộ công nhân viên ăn 2/3
sắn khô ấy độn với 1/3 gạo, sống qua thập kỷ đói ấy mà... xây dựng Tây Nguyên.
Xây
dựng gì? Mở chiến dịch xóa khố (trong khi cán bộ được cấp một năm 4 mét vải bằng
phiếu thì dân xóa khố sẽ mặc gì? không biết cứ xóa đã), chiến dịch Kon Cheo
hóa, tức là dân làng phải làm nhà trệt, nhà sàn là... lạc hậu. Rồi định canh định
cư, đưa nhà máy về vùng sâu vùng xa để... gần dân, như đưa nhà máy xi măng Chư
Sê về vùng mà nước uống hàng ngày cũng không có... vân vân các kiểu.
Và
xây dựng tới đâu thì rừng mất tới đấy. Giờ giật mình. Và dẫu thủ tướng đã ban lệnh
đóng cửa rừng mấy năm nay rồi thì rừng vẫn mất. Liên tục các vụ phá rừng lớn bị
công an phát hiện, truy bắt và khởi tố.
Phá
rừng đã trở thành... thói quen mất rồi. Mà rừng, như đã nói, nó không chỉ là rừng,
mà nó là văn hóa, văn minh, là ký ức, là đời sống tinh thần của cộng đồng, của
xã hội Tây Nguyên.
Một
số chính sách, việc làm của chúng ta, tưởng là để giúp Tây Nguyên phát triển,
nhưng có khi lại... đi ngược.
Hàng
vạn ngôi "nhà rông văn hóa" tốn rất nhiều tiền của một thời, ngơ ngác
trong nắng trong gió rồi bỏ hoang rồi tự hỏng từ bao giờ. Những ngôi làng 134,
135, nhiều lắm, làm xong để đấy và cũng đã hỏng, đang hỏng, cũng tốn rất nhiều
tiền của của nhà nước và nhân dân.
Những
"Lễ hội" rất tốn kém được nhà nước bỏ tiền ra làm mà không biết rằng,
thứ nhất nó không phải là lễ hội, như "lễ hội đâm trâu", "lễ hội
cồng chiêng", và đã là lễ hội thì không thể làm thay, mà nó phải của chính
chủ thể của nó, là nhân dân, là cộng đồng buôn làng chứ không phải là mang lên
phố tưng bừng xanh đỏ tím vàng.
Hiện
nay đang có những chính sách lớn liên quan tới sự phát triển xã hội như nông
thôn mới, cánh đồng mẫu lớn, làng thôn văn hóa. Tất cả những chính sách của
chúng ta để giúp dân giàu hơn, xã hội phát triển là đều tốt. Nhưng khi áp dụng
vào, có khi lại đi ngược với sự phát triển. Như nếu không khéo, áp dụng nông
thôn mới vào các làng, chả cứ Tây Nguyên, mà cả ở đồng bằng, chúng ta sẽ làm mất
đi cái hồn cái cốt của làng. Với làng Tây Nguyên thì nó còn quan trọng hơn, bởi
nó là không gian văn hóa, là không gian làng rừng. Tách nó ra, nó chỉ còn là những
cái hộp để những cá thể người qua ngày. Cái mà Unesco công nhận không phải là cồng
chiêng Tây Nguyên, vì người Tây Nguyên không làm ra chiêng, mà họ công nhận cái
không gian văn hóa của nó. Bóc không gian ấy ra, cồng chiêng chỉ còn là...
phèng la. Cũng như thế, với các công trình thủy lợi hiện nay trên Tây Nguyên,
thừa sức có thể làm những cánh đồng mẫu lớn trên ấy. Nhưng, Tây Nguyên, gốc của
nó, lại là văn minh nương rẫy. Nếu muốn quy hoạch vựa lúa thì cứ việc, nhưng muốn
Tây Nguyên là Tây Nguyên, thì nhìn những cánh đồng mẫu lớn ở đây, người ta sẽ
hiển hiện một đồng bằng Bắc bộ hoặc Nam Bộ. Thế Tây Nguyên còn gì? Vả, chúng ta
có còn cần lương thực đến mức biến đồi núi thành cánh đồng lúa nước nữa không?
(Khi in ở Cảnh sát toàn cầu đã "được" đổi tít ạ, he he)
4 nhận xét:
Vốn từ tiếng Việt có từ 'nguyên'; khá nhiều người chủ quan, nghĩ mình đã nắm, đã hiểu nó. Tuy nhiên, qua vận dụng vào từng ngữ cảnh, phát lộ ra, không ít người có chữ, phu chữ, đã hiểu chệch nghĩa và dùng sai chỗ. Không chi chiết các nghĩa về cây, con, về các biến nghĩa khác, từ 'nguyên'là vốn từ Hán Việt, có 2 nghĩa chính: đồng đất rộng, và, đầu tiên. Đồng đất rộng, bằng phẳng gọi là bình nguyên. Đồng đất rộng, cao, gò đồi tiếp nối, gọi là cao nguyên. Cao nguyên trải rộng phía tây gọi là tây nguyên.
Người đầu tiên giữ chức thủ tướng chính phủ gọi là Nguyên Thủ Tướng. Ví như: nguyên Thủ Tướng Phạm Văn Đồng. Ông Kiệt, Ông Khải, đã qua đời thì gọi Cố Thủ Tướng, Ông Dũng, đã nghỉ hưu, thì gọi Cựu Thủ Tướng. Không thể tồn tại nét nghĩa 'Nguyên' với biểu niệm tôn trọng và 'Cựu' với biểu niệm không đề cao, chú trọng. Một số ví dụ: Nguyên đán-tia nắng đầu tiên của năm. Nguyên tiêu-đêm rằm đầu tiên trong năm. Hoàng nguyên-vàng ròng...
Trở lại: "Để Tây Nguyên còn nguyên" là làm thế nào đó để vùng cao nguyên phía Tây này giữ được dáng vẻ...đầu tiên,(nguyên khai, nguyên sơ). Đề bài viết như thế, cố sửa lại...mãi xanh(!)thì không những không nắm được thủ thuật chơi chữ, ý chủ đạo của bài viết mà còn không hiểu tính từ 'xanh'như thế nào, nguy hiểm như thế nào. Xanh hả? Ngô khoai, chuối mía, rừng keo lá tràm...thì xanh ngắt, xanh thẳm, xanh thắm. Nhưng, cái mãi...xanh ấy có là tây nguyên? Nhưng thôi. "Cảnh sát toàn cầu" mà. Tự dưng thấy vui vui.
Hihi bác thật là hiểu tác giả,. Cám ơn bác rất nhiều ạ.
Tây nguyên. Giờ đâu còn Nguyên. Di dân từ Bắc, từ Trung vào ào ào, và mang theo bao thứ, nhất là " tài" phá rừng
@Nặc danh: Ahuhu ạ
Đăng nhận xét