Nhớ
một lần nào đấy, cách đây vài năm, tôi về thị xã Ayun Pa. Tới cái xã giáp đầu
thị xã thì gặp một cái xe Kia tã tã đang lùi ra đường. Dừng để nhường đường thì
phát hiện người đang ôm vô lăng là Thái Thanh Bình, người quen cũ. Nhảy xuống hỏi:
Sao bí thư lại tự lái xe cá nhân đi thế này, vi phạm nhé. Cười bảo: Em vào xem
cái chỗ đang tranh chấp đất đai cái để chiều họp xử lý. Có những việc cứ phải
"lủi thủi" đi thế nó mới được việc, chứ lúc nào cũng bệ vệ chưa chắc
đã nắm được vấn đề.
Lần
ấy về tôi viết vào sổ tay dù rất ít khi dùng sổ tay: Có một thế hệ lãnh đạo mới.
Nhớ
chuyện này là vì vừa lục tìm tài liệu, đọc lại cái đoạn cả tiểu đoàn bộ đội chạy
rầm rập xuyên đêm, kịp đến cầu sông Bờ trước khi quân đội đối phương kịp tới để
chặn đường rút quân, biến cầu sông Bờ nói riêng, đường 7 nói chung, thành một địa
chỉ lẫy lừng trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Đoạn tôi đọc là trong tiểu
thuyết "Trong cơn gió lốc" của nhà văn Khuất Quang Thụy. Ngay sau hòa
bình, đây là cuốn tiểu thuyết cực kỳ nổi tiếng, nó khiến cho địa danh Phú Bổn,
Ayun Pa trở thành một cái tên cũng hết sức lừng lẫy, dù rất nhiều người không
hình dung nó ở đâu?
Là
từ cái đận cả tiểu đoàn cầm súng, bỏ lại tất cả tư trang, chạy bộ suốt đêm ấy,
tới khi bí thư thị xã tự lái xe xuống xã thị sát tình hình, nó là cả một giai
đoạn dài, và không chỉ là thời gian, mà là sự thay đổi về đời sống, về xã hội.
Nhà
văn Khuất Quang Thụy, giờ là tổng biên tập báo Văn Nghệ, năm 1975 là một người
lính trực tiếp chiến đấu của sư 320, quân đoàn 3, sư đoàn trực tiếp tổ chức chốt
chặn đường tháo chạy của tàn quân đối phương ngay ở vị trí cầu sông Bờ bây giờ.
Và ngay sau đấy, toàn bộ câu chuyện này được anh viết thành tiểu thuyết nổi tiếng
tôi nhắc trên kia "Trong cơn gió lốc".
Chả
cứ tôi, rất nhiều người dân ở ngay Ayun Pa cũng ít người nhớ sự kiện sông Bờ, địa
danh sông Bờ. Còn trong lịch sử, người ta nhắc nhiều tới chiến thắng đường 7, sự
kiện đường 7, "cuộc tháo chạy tán loạn" đường 7 (tên cuốn sách của một
viên tình báo Mỹ, nhà văn Frank Sneep) vân vân nhưng cũng ít nhắc tới địa danh
sông Bờ.
Nếu
chạy qua cây cầu lịch sử này, một quân đoàn và một quân khu của quân đội Việt
Nam cộng hòa sẽ thoát được về tới đồng bằng, sẽ trở thành một lá chắn hết sức vững
chắc để bảo vệ đô thành Sài Gòn. Ngược lại, nếu chặn được đội quân khổng lồ này
ở đây, sự chi viện cho đồng bằng sẽ bị cắt đứt, con đường đến ngày 30/4 thênh
thang thêm nhiều.
Nó
có một chi tiết hay là, ngày 19/3, đương lúc căng thẳng nhất của cuộc chạy/ chặn
thì đối phương đã... bỏ bom làm sập cây cầu.
Tôi
vừa được đến một cây cầu cũng có số phận như thế, là cầu sông Bé ở Bình Phước.
Cũng đâu trong năm 75, để chặn những cuộc
tấn công của quân giải phóng trên đường 14, quân đội Việt Nam cộng hòa cũng
đánh gãy cây cầu này. Đây là cây cầu xi măng rất đẹp do người Pháp làm, gần gần
giống dáng cầu Long Biên, cầu Trường Tiền với những đường cong mềm mại, nên dẫu
là xi măng nhưng trông nó vẫn rất mảnh mai, nhẹ nhàng. Tôi đến là vì được tham
gia vào một việc đầy chất... lịch sử, ấy là thả tro cốt nhà báo Pháp Boudarel
xuống con sông Bé, ngay khúc cầu bị gãy, nơi ngày xưa ông nhà báo người Pháp
này hoạt động chống... Pháp.
Thì
lịch sử có những chuyện li kì không lý giải được. Ông Boudarel sang Việt Nam dạy
học từ thời Pháp chiếm đóng Việt Nam. Ông dạy môn triết ở trường nữ trung học Marie Curie
Sài Gòn. Từ đây ông ra chiến khu theo Việt Minh chống Pháp, mà nơi hoạt
động chính là chiến khu D ở Tây Ninh, Bình Phước. Sau ông ra Bắc làm ở một trại
giam từ binh Pháp, rồi Nhà xuất bản Ngoại Văn, giờ là NXB Thế giới. Ông bị một
tòa án Pháp kết án tử hình vắng mặt về tội phản bội Tổ quốc. Sau này phong trào
dân chủ lên cầm quyền, ông được ân xá, quay lại Pháp làm giáo sư sử học, dù bị
rất nhiều tù binh Pháp đã ở Việt Nam tố cáo là tội phạm chiến tranh, nhưng lại
cũng có hẳn một "hội những người ủng hộ Boudarel" do những trí thức rất
nổi tiếng ở Pháp lập ra để bảo vệ ông. Và trước khi chết thì ông trăng trối là
hỏa thiêu, rắc một phần tro xuống con sông quê ông, còn lại mang sang thả ở 3
con sông Việt Nam ông từng sống và hoạt động là sông Bé, sông Thu Bồn và sông Hồng.
Tôi được tham gia ở cây cầu gãy sông Bé này.
Trở
lại cầu sông Bờ, nó mang tính quyết định là thế, lịch sử là thế.
Bây
giờ thì đã 45 năm từ ngày ấy, anh lính trẻ Khuất Quang Thụy trong đoàn quân vác
súng chạy nguyên đêm chiếm cầu ngày ấy giờ đã là một đại tá cựu binh... già, dù
anh vẫn đương chức tổng biên tập một tờ báo văn chương lớn. Hôm rồi khi tôi nhắc
chuyện này, anh vẫn hừng hực như... 45 năm trước, "nếu cần, tớ vẫn ôm súng
được đấy, đừng đùa với lính chủ lực quân đoàn 3 nhé". Tôi nhớ hồi ấy, ngay
sau năm 1975 ấy, có mấy cuốn tiểu thuyết nóng hôi hổi hơi thở của cuộc chiến
như "Năm 1975 họ đã sống như thế" của Nguyễn Trí Huân, "Đất trắng"
của Nguyễn Trọng Oánh, "Họ cùng thời với những ai" của Thái Bá Lợi,
"Những người từ trong rừng ra" của Nguyễn Minh Châu, và không thể
không nhắc "Trong cơn gió lốc" của Khuất Quang Thụy. Chỉ bằng một trận
đánh anh đã "vẽ" nên cả cuộc chiến tranh. Từ một cây cầu, anh khắc họa
cả một chặng đường khốc liệt bi tráng của những gì mà dân tộc ta đã trải qua, bởi
phía sau những người lính là quê hương làng mạc, là bố mẹ ông bà tổ tiên, là vợ
là con, là người yêu, bạn bè... và cao hơn là lịch sử, là số phận dân tộc, Tổ
quốc...
Những bi kịch của cuộc tháo chạy và trận đánh kinh hoàng ấy
giờ vẫn còn, ấy là những đứa con của những gia đình di tản bị lạc trong những
ngôi làng người Jrai ven đường 7, giờ vẫn còn thấp thoảng đâu đấy. Vẫn còn những
gia đình đi tìm con, mà chương trình "Như không hề có cuộc chia ly" của
nhà báo Thu Uyên dạo nào còn giữ rất nhiều hồ sơ. Ngay ở thành phố Pleiku đang
có nhiều câu chuyện như thế, những con người như thế, những gia đình như thế,
hiện diện...
Thị xã Ayun Pa đang có kế hoạch "Triển khai thực hiện quy hoạch chi tiết di tích chiến
thắng đường 7 Sông Bờ", thiết nghĩ cũng đã chậm. Bạn bè tôi ở các nơi về,
để chỉ đường cho họ về Ayun Pa theo đường 7 cũ là rất vất vả. Đã từng có kế hoạch
làm một cái biểu trưng hay là gì gì đấy ngay chỗ rẽ từ đường 14 vào đường 25, rằng
đây là nơi bắt đầu con đường số 7 nổi tiếng năm 1975. Đi nhiều như tôi mà nhiều
khi cũng luột qua một đoạn mới quay lại để rẽ, bởi chỗ ngã ba ấy, cái sự báo hiệu
để rẽ vào đường 25 xuống Ayun Pa rất mù mờ, chứ đừng nói là giới thiệu về con
đường từng huyền thoại ấy. Và cũng như thế, là cái địa điểm cầu sông Bờ. Con
người không thể sống mà không có ký ức. Dân tộc phát triển không thể không có lịch
sử. Chúng ta, chỗ thì khoa trương quá mức, chỗ lại im ắng quá...
Thị xã Ayun Pa bây giờ chính là tỉnh Phú Bổn ngày
xưa. Thời ấy những cái tên Phú Bổn, Hậu Bổn, Phú Túc, Cheo Reo, Thuần Mẫn...
luôn vang lên trên các bản tin chiến trận, nhất là vào tháng 3 năm 1975.
Giờ, dân thi thoảng vẫn dùng cái tên Phú Bổn để nói
về Ayun Pa. Cái tên ấy gợi về một thời, nó cứ buồn vui lẫn lộn...
Những đứa trẻ con Jrai ven đường 7, ảnh chụp gần 20 năm trước. |
Đoạn chân đèo Tô Na, giáp ranh Phú Bổn và Krông Pa |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét