Các cô rất thật lòng, mời 2 anh ngủ lại, 2 anh một giường, 2 em một giường, để nói chuyện cho vui, cho có tiếng người. Sinh viên mới ra trường, trai tân, nhưng quả là, thề có đèn giời, lúc ấy tôi hoàn toàn không nghĩ gì, dẫu chỉ là thoáng qua, cái ý đen tối khi 2 gã trai ngủ lại ở một cái phòng tranh tre nứa lá giữa rừng già Ngok Linh trắng sương lạnh buốt kia với 2 cô gái, chỉ thấy ái ngại và thương các cô...
--------------
Chúng tôi đăng bài báo này của tác giả Văn Công Hùng (Trong mạch Thầy làng, trường làng và trò
làng) với sự áy náy là tác giả bài báo, dù sống ở Tây Nguyên và đã đặt chân đến
rất nhiều buôn làng, song từ sau cái câu chuyện mà anh kể dưới đây thì anh đã
chưa có dịp trở lại. Vì thế, rất mong các thầy cô giáo, các bạn đọc ở Kon Tum,
đặc biệt là ở Đăck Glei, ai từng biết và còn nhớ ngôi trường này, ai biết manh
mối về 2 cô giáo ở đây, hãy thông báo cho chúng tôi. Bằng tất cả ký ức vừa đẹp,
buồn và xa xót ấy, chúng tôi sẽ cố gắng tổ chức một chuyến về thăm lại ngôi trường
ngày xưa, có một hành động gì đấy với ngôi trường, nơi mà, chắc chắn từ đấy đã
có rất nhiều thế hệ học sinh trưởng thành, nơi rất nhiều thầy cô như 2 cô giáo
trong bài viết, đã lặng lẽ hy sinh, lặng lẽ dâng hiến, để giờ lại lặng lẽ bình
dị ở đâu đấy trong hàng vạn thầy cô đang miệt mài trong sự nghiệp trồng người...
Cuộc sống luôn hối hả lao về phía trước, nhưng ký ức thì cứ neo lại, trở thành
những hoài niệm đẹp trong hành trang đời người...
Thuở
nhỏ tôi đã từng học ở chái nhà thầy, ở
đình làng, ở các lán, ở dưới hầm. Có dạo lại còn phải học ban đêm trong hầm. Những
cái hầm chữ A không lồ, cứ mưa là ngập nước, chúng tôi ngồi trên những cái ghế
ghép bằng 2 cây luồng (bàn thì ghép 3 cây) thả chân xuống nước khua khoắng. Hồi
nào máy bay ném bom nhiều quá thì học ban đêm, mỗi đứa đi học xách theo một cây
đèn hoa kỳ được đặt trong những khúc ống luồng được trổ một cái lỗ để ánh sáng
lọt ra phía ấy. Trên bảng là một cây đèn bão treo trên góc. Mỗi khi viết thì
xoay cái phía ánh sáng đèn dầu về cuốn vở, còn xem trên bảng thì đồng loạt xoay
ánh sáng về phía ấy. Những cây đèn con con hướng về bảng phụ họa với ánh sáng
cây đèn bão giúp chúng tôi lờ mờ thấy những gì cô viết trên bảng, thế mà cấm đứa
nào cận thị...
Nhưng
dù đã trải qua những ngày học, lớp học kinh hoàng thế nhưng đến giờ, cái ấn lớp
học ở Đăck Glei mà tôi chỉ gặp một lần trong đời vẫn ám ảnh tôi, nó khiến tôi mỗi
lần nghĩ đến giáo dục vùng sâu vùng xa là lập tức nghĩ đến, rồi lấy nó làm điểm
để so sánh, liên tưởng và xa xót...
Dạo
ấy tôi mới lên nhận công tác ở tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Tôi nhớ ông phó phòng
kêu tôi lên căn dặn nguyên một buổi chiều, rằng là không được đi ra cách trụ sở
làm việc 2 ki lô mét vì fulro vẫn đang hoạt động rất mạnh. Ban đêm 8 giờ phải tắt
đèn đi ngủ dù cơ quan tôi ở ngay trung tâm thị xã Pleiku. 2 tháng sau thì tôi
có cuộc đi công tác đầu tiên, là lên huyện Đăck Glei. Lúc ấy là đầu năm dương lịch
1982.
Từ
Pleiku lên Đăck Glei tiếng là trong một tỉnh, hồi ấy chưa chia tỉnh, nhưng phải
đi xe Zin 3 cầu mà mất đúng 2 ngày. Chúng tôi đi thành đoàn 7, 8 người và trong
đoàn có người có súng. Xong việc thì một anh có máu văn chương, nguyên là lính
của đồn biên phòng Đăck Glei rủ tôi... tách đoàn vào đồn biên phòng cũ của anh
chơi. Trẻ và hăng và đầy tò mò, tôi hăm hở nhận lời.
Té
ra nó xa và hiểm trở kinh khủng. Giờ thì có khi chỉ tiếng đồng hồ xe chạy là đến
nơi, nhưng hồi ấy chúng tôi đi bộ. 2 gã trai lếch thếch cứ xuyên rừng già mà
đi. Gần đến đỉnh này lại gặp đỉnh khác, có những đoạn anh bạn kia phải đi trước
cầm 1 đầu sợi dây rừng để tôi bám phía sau men theo con đường cheo leo trên miệng
vực, bên này là vách núi, con đường mòn chỉ đặt được một bàn chân, bên kia là
hun hút miệng vực. Chừng 3 tiếng đồng hồ thì hiện ra một thung lũng. Anh bạn đi
cùng hú ầm lên. Dưới thung lũng thấy 2 bóng áo trắng con gái chạy ra vẫy tay và
cũng hú loạn xạ. Giờ mới nhìn rõ, có một cái nhà tranh kiểu lán ẩn dưới tán cây
rừng.
Thì
ra nó là một cái trường. Trường của xã hẳn hoi nhé chứ không phải điểm trường
như sau này. Trường có 4 lớp học từ lớp 1 đến lớp 4, và chỉ có 2 cô giáo dạy. Đến
giờ quả thật là tôi đã không còn nhớ tên các cô nữa, cuốn sổ ghi chép thời ấy
đã mục nát từ hồi nào, chỉ nhớ một cô quê Nam Hà, một cô quê Nghệ An. Các lớp học
mà tôi đã trải qua trên kia, nó gì thì gì, còn có dân ở bên cạnh, khi vắng học
trò còn có dân. Đằng này, lớp chơ vơ giữa thung lũng, làng gần nhất đi bằng
chân học trò cũng mất 2 tiếng, còn chân các cô thì 3, 4 tiếng. Hỏi kỹ thì biết,
là không làng nào chịu làng nào nên trường của xã nhưng không đặt được ở xã,
cũng không đặt được ở làng nào, mà phải chia khoảng cách bằng nhau giữa các
làng. Người Tây Nguyên là vậy, cái gì cũng phải công bằng. Vậy nên có thời người
ta bỏ tiền tấn ra làm các nhà rông văn hóa cho dân, đặt ở trung tâm xã, kết quả
là chỉ giải quyết khâu... oai chứ chả có người dân nào lên sử dụng. Họ chỉ lên
khi đấy là của làng họ. Vậy nên ở cái trường tôi đang kể ấy, thường thì 9 giờ mới
vào học, đến 11 giờ thì xong ca thứ nhất, ca chiều học từ 1 giờ đến 3 giờ thì cho trò về nhà cho kịp tối, nhất là
mùa mưa. Thời gian còn lại là của... 2 cô giáo ấy. Dằng dặc cô đơn nên có thể
hiểu sự mừng vui tột độ khi các cô gặp... người. Tất cả mọi thứ đều phải ra huyện
lĩnh, từ lương cho đến nhu yếu phẩm các loại. Mà chủ nhật thì huyện lại nghỉ. Vậy
nên có ngày chỉ còn có 1 cô ở trường, cô kia phải ra huyện. May mà còn có các
anh bộ đội biên phòng thi thoảng qua lại, và đấy là lý do anh bạn đi cùng
nguyên là bộ đội của đồn hú ấm lên khi thấy trường và các cô cũng vừa hú vừa vẫy
loạn xạ.
Trưa
ấy các cô đãi cơm chúng tôi. Cơm thì tất nhiên rồi, thức ăn là rau cải luộc chấm
nước muối. Có mấy con cá chuồn khô kho muối. Nhưng các cô vui lắm, cứ tíu ta
tíu tít, còn nằn nì chúng tôi... ngủ lại. Cái trường ấy có 3 gian, 2 gian là 2
phòng học cho 4 lớp, gian còn lại là chỗ ngủ cho... 3 thầy cô. Thì ra ở đây còn
1 thầy nữa, nhưng thầy phải vào dạy tận điểm trường trên đỉnh Ngok Linh cao vút
quanh năm mờ sương, lâu lâu thầy mới quay lại trường, mỗi lần đi cả ngày, lúc ấy
thì 2 cô ngủ ghép 1 giường, thầy 1 giường. Các cô rất thật lòng, mời 2 anh ngủ
lại, 2 anh một giường, 2 em một giường, để nói chuyện cho vui, cho có tiếng người.
Sinh viên mới ra trường, trai tân, nhưng quả là, thề có đèn giời, lúc ấy tôi
hoàn toàn không nghĩ gì, dẫu chỉ là thoáng qua, cái ý đen tối khi 2 gã trai ngủ
lại ở một cái phòng tranh tre nứa lá giữa rừng già Ngok Linh trắng sương lạnh buốt kia với 2 cô gái, chỉ
thấy ái ngại và thương các cô. Nhưng anh bạn đã hẹn với đồn là tối ấy tôi sẽ
nói chuyện với cán bộ chiến sĩ của đồn (thay vì họ phải sinh hoạt gì đấy thì
tôi vừa liều mạng vừa bị đặt vào thế đã rồi, đăng đàn nói chuyện cho bộ đội, về
Nguyễn Du, tôi nhớ thế). Vì thế mà chúng tôi cương quyết rũ áo khước từ, hẹn
hôm sau quay lại sẽ ghé. Hôm sau quay ra, trên đường đi tôi phát hiện hôm nay
đúng là ngày 20/11, bèn hái một bó hoa rừng ôm theo. Cả 2 cô thấy chúng tôi xuất
hiện với bó hoa trên tay đã òa khóc. Lại ăn cơm, lại rau cải luộc chấm nước muối
và cá chuồn khô, lại mời ngủ lại, nhưng chúng tôi vẫn phải ra huyện cho kịp để
sáng hôm sau theo xe Zin 3 cầu về Pleiku, chứ nếu không phải ở lại Đăck Glei cả
tuần sau mới có xe.
Rồi
tôi đã không bao giờ trở lại ngôi trường ấy nữa, đồng nghĩa với mù tịt tin về 2
cô giáo dù vẫn luôn ám ảnh cái ánh mắt của các cô khi mời chúng tôi ngủ lại,
cái tiếng hú mà trước đó tôi được dạy là chỉ người tiền sử mới dùng vì họ chưa
có tiếng nói, cái động tác vẫy tay rối rít khi chúng tôi xuất hiện từ trên đỉnh
núi mờ sương, và dáng thẫn thờ khi chúng tôi quay lưng trước khi lẫn vào rừng để
ra lại thị trấn...
Những
năm 80 của thế kỷ trước, những trường học như thế, lớp học như thế, những cô
giáo như thế, không phải là cá biệt...
Bức
ảnh tôi in kèm ở đây là tôi chụp cách đây 8 năm, ở một ngôi trường sát biên giới
Cam Pu Chia thuộc huyện Ia Grai, Gia Lai, phòng ở của các cháu học sinh nội
trú...
3 nhận xét:
Có những kẻ suốt đời ngồi trong phòng lạnh hô khẩu hiệu và đề ra những chủ trương bệnh hoạn lại được quyền "đánh giá phẩm chất" của những cô giáo thầy giáo hy sinh cuộc đời như thế...ngẫm mà đau cho thế cuộc này.
Năm 1978,tại Trà Đốc thuộc huyện Trà my cũng có hai cô giáo như thế, họ là nữ sinh Trần cao Vân Tam kỳ, sau 1975 họ tham gia khóa đào tạo cấp tốc 12 + 1 và thành giáo viên miền núi.
Cái heo hút thì Bác Hùng đã kể,hơn kém nhau về sự lạnh lẽo chỉ đau lòng thêm.
Cô Hân bị sốt rét, không trạm xá,không thuốc men, không gì cả, cứ thế lã dần...Cô Cúc mới 21 tuổi, không biết gì ngoài việc ngồi khóc, rồi băng rừng tìm ông trưởng thôn người dân tộc.
Có bốn người thanh niên dân tộc tình nguyện khiên cô Hân về Trà My, có thể đi hết một ngày đường. Cô Cúc nấu nước bồ kết gội đầu cho bạn, tóc rụng đến nỗi phải nhắm mắt mà chải...
Cô Hân bỗng hát khe khẽ: Có phải chăng rạn vỡ trong tâm hồn chúng ta...
Cô Cúc đi theo chăm sóc bạn, cáng bằng võng, nếu người khỏe nằm vào võng thì cũng sẽ bịnh vì đường núi quá hiểm nguy.
Đến trưa thì ra đến đường mòn, nay gọi là DT616, nghỉ ngơi ăn cơm nắm, bỗng cả bọn xao xác bỏ chạy về, để 2 cô bơ vơ! Cô Hân đã không qua khỏi, họ không khiêng người chết.Cúc khóc và ngất bên xác bạn,vắng lạnh người, ngày ấy không có xe chạy thường ngày qua đấy.
Sau có chiếc Uoat biên phòng về ngang qua, đưa Hân về quàng ở hội trường Trà my, cô Cũc nhập viện. Phải nhiều ngày sau mới xác định được đó là 2 cô giáo, mới biết quê để mà đưa về. Cô Cúc bị chấn sang tâm lý thời gian dài.
Năm 2004, khi nghe bài "Trên tháng ngày đã qua" tại nhà tôi, cô Cúc thảng thốt và kể lại như trên,giờ chép lại,để nhớ thời đã qua,để phân biệt hy sinh và cái bên cạnh sự hy sinh.
Câu chuyện thật cảm động!Cảm ơn nhà thơ Văn Công Hùng đã ghi lại ký ức đẹp một thời.
Cảm ơn các thầy cô giáo đã nâng bước chân bao lứa học trò...để những tốt đẹp vẫn được truyền thừa nơi những dòng chảy âm thầm.
Đăng nhận xét