Khi nói chuyện ngoại tình ở nông
thôn, cứ tưởng không có nhà nghỉ, khách sạn thì nó ít phát triển hơn ở thành
phố, té ra không phải vậy. Cây rơm, bờ ruộng, doi cát, góc bếp, chuồng lợn, bụi
chuối... đều là những nơi lý tưởng cho ngoại tình nông thôn thăng hoa. Và nó
cũng lâm li bi đát chả khác gì ở thành phố...
------------
Tôi
vừa ở Vũng Tàu về, may mắn gặp hai ông nhà văn viết về nông thôn rất
"mả" là Nguyễn Hữu Nhàn và Trần Đức Tiến. Ngồi với hai ông nghe các
ông nói và kể về nông thôn cứ mê lịm đi và thi thoảng cũng... ghê ghê. Tôi là
người làm thơ nên thường thiên về cái lãng mạn trữ tình của nông thôn. Tiếp xúc
với các nhà văn mới thấy nông thôn không chỉ là trăng, là cây đa bến nước, là
cỏ may rơm rạ, mà còn một nông thôn khác, dữ dội, khốc liệt, vừa bần cùng vừa
khai sáng, vừa hồn nhiên vừa đo đắn...
Nếu
tính một cách cơ học thì có vẻ hai đề tài chiếm dung lượng lớn nhất trong nền
văn chương Việt Nam trước nay là chiến tranh và nông thôn. Dẫu gần nửa thế kỷ
đã trôi qua từ khi chính thức chúng ta có hòa bình thì dư âm của cuộc chiến
tranh kéo dài suốt mấy chục năm, thậm chí là mấy thế hệ vẫn luôn nhức nhối
trong tâm can người cầm bút, nó vẫn luôn là những câu hỏi lớn, vẫn là sự tự vấn
lương tâm, là nỗi canh cánh giằng xé trước những phi lý không dễ gì giải đáp.
Cuộc chiến tranh ấy xảy ra ở một đất nước 90 phần trăm là nông dân. Gần tuyệt
đại bộ phận những người lính là nông dân, gần tuyệt đại bộ phận những người nằm
lại ỏ các nghĩa trang liệt sĩ và cả những nơi không phải là nghĩa trang liệt sĩ
do chưa quy tập hoặc không thể quy tập được là nông dân. Nhưng cuộc chiến liên
quan đến số phận của cả dân tộc nên yếu tố nông dân có vẻ bị coi nhẹ, hoặc
người ta nhắc đến nó với sự phiến diện nhất định để tôn cao lên cái ý tưởng
tiền tuyến lớn, mà ở đó, ưu tiên số một là chiến đấu và chiến thắng. Bây giờ,
sự bất thường của cuộc sống qua đi, người ta trở lại nhịp điệu bình thường sau
gần cả thế kỷ bất thường, sự bất thường đã từng trở thành bình thường vì sự bất
thường quá lâu của nó.
Nhớ
hồi cuốn "Mảnh đất lắm người nhiều ma" của anh Nguyễn Khắc Trường ra
đời đã gây một hiệu ứng xã hội rộng lớn đến như thế nào. Thực ra thì vấn đề tư
hữu, dòng họ, đố kỵ ghen ghét, mưu mô nham hiểm, tự phụ tự mãn kiểu nông dân,
vấn đề đất đai ruộng vườn ở nông thôn đã có hàng ngàn năm nay, nhưng đến Nguyễn
Khắc Trường, nó hiện lên rõ mồn một, nó trở thành những vấn đề không thể không
quan tâm. Thực ra cuốn này nổi tiếng chưa hẳn đã phải vì văn chương của anh
Trường, mà là cái cách anh ấy đưa vấn đề ra, cái cách anh ấy quan sát nông thôn
ở tư thế một người trong cuộc, một người hiểu nông thôn đến ngọn ngành, đến
chân tơ kẽ tóc... để nó trở thành một cuốn tiểu thuyết mà bây giờ nhắc đến nông
thôn là phải kể đến nó.
Ngồi
với Trần Đức Tiến, nghe anh kể về nông thôn xưa và nay, thấy anh cũng có một
vốn sống về nông thôn rất cổ quái. Ví như khi tôi kể việc vừa đi về một số vùng
nông thôn, không phải ở miền núi đâu, đồng bằng hẳn hoi, nhà xây hẳn hoi, nền
láng gạch men mát lạnh, tivi, tủ lạnh... đủ đầy, nhưng lại thiếu cái... nhà vệ
sinh. Khi hỏi nơi giải quyết đầu ra, được phát cho một cái... gậy và bảo "mời
bác ra... vườn". Cái gậy là để đuổi chó và lợn, và cũng có thể là... giấy
lau luôn. Vườn là cái toilet mênh mông. Tôi cũng kể là phải đến mới đây, tôi
mới hiểu mới tường mới hình dung rõ ràng cái từ của người Nghệ Tĩnh mà tôi đã
quá quen lâu nay: "quẹt khu". Trần Đức Tiến cười ha hả, chuyện vặt.
Đấy là còn có vườn mà đi, còn có gậy mà... quẹt khu, còn nơi không có vườn
không có gậy thì kinh hơn nhiều, hãi hùng hơn nhiều. Nhưng mà họ vẫn sống, vẫn
yêu, vẫn sinh con đẻ cái. Khi nói chuyện ngoại tình ở nông thôn, cứ tưởng không
có nhà nghỉ, khách sạn thì nó ít phát triển hơn ở thành phố, té ra không phải
vậy. Cây rơm, bờ ruộng, doi cát, góc bếp, chuồng lợn, bụi chuối... đều là những
nơi lý tưởng cho ngoại tình nông thôn thăng hoa. Và nó cũng lâm li bi đát chả
khác gì ở thành phố...
Ông
Nguyễn Hữu Nhàn thì đương nhiên là "vua" nông thôn hiện tại. Truyện
ông rặt nông thôn là nông thôn.Và ông hình như cũng đang sống ở một vùng ven
thành phố Việt Trì. Nói chuyện với ông như đang ngồi với một ông thủ từ làng. Nông
thôn dưới mắt ông nó là cội rễ văn hóa của dân tộc. Bóc lớp này đi, lớp khác
hiện ra, hôi hổi và tươi rói. Nông thôn với tất cả cái lãng mạn và khốc liệt,
với cả sự huy hoàng và khốn nạn, mơn mởn đấy mà cũng cỗi cằn trì trệ...
Tôi,
trong những trang viết của mình, những dòng thích nhất là viết về ký ức, về
nông thôn, về những ngày phập phồng gió ở bờ đê nơi tôi sơ tán thuở bắt đầu
biết nhớ. Vốn dĩ tôi sinh ra ở thị xã Thanh Hóa, nhưng cả cuộc chiến tranh phá
hoại lẽo đẽo đi sơ tán cùng ba mẹ. Ba mẹ tôi đều là người ở quê, đi hoạt động
cách mạng rồi làm ở thành phố nhưng rồi vẫn đau đáu nhớ quê nên về hưu là vù
một phát về quê mua nhà ở. Và tôi, đến giờ, trong ký ức của mình, vẫn coi những
tháng ngày ấy là đẹp nhất, dù đấy là những tháng ngày khó khăn gian khổ đến
cùng cực, luôn luôn đói, luôn luôn thèm ăn, luôn luôn co ro khép nép trước cái
lạnh, cái nóng...
Những
trang viết ấy giờ đây trở thành những trang xúc động nhất, phập phồng nhất, run
rẩy nhất của tôi. Có thể nó chưa hay, chưa đủ đầy, chưa toàn bích, nhưng nó đẹp
và chân thành. Mới đây tôi vừa trở lại nơi tôi đã từng sống trọn tuổi thơ ở
đấy. Nhân có cuộc họp ở Ninh Bình, tôi rủ hai nhà thơ Lê Huy Mậu và Lê Quang
Sinh vù đi Thanh Hóa chơi, cho tôi về lại nơi gần bốn mươi năm trước tôi đã ra
đi và chưa một lần trở lại. Lê Huy Mậu quê ở Thanh Chương Nghệ An, còn Lê Quang
Sinh thì ở Yên Định Thanh Hóa, đều gốc nông dân cả. Khổ thế, vào Nam ra Bắc
suốt, nhưng cái làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa ấy nó lại không
quá gần hoặc không quá xa để có cớ mà nghỉ lại dù nó nằm ngay bên đường số 1,
sát đền Bà Triệu nổi tiếng. Thành thử cứ ngồi xe hoặc tàu chạy qua mà chỉ trỏ,
mà mong gặp được một dáng người quen. Suốt thời cấp 1 và cấp 2 tôi học ở đây,
đã biết nhơ nhớ một cái lưng thon sau tấm áo nâu cổ tròn, một mái tóc ngang
lưng ngúng nguẩy, một nụ cười vu vơ, một cái nhìn bất định... Giờ về, làng cũ vẫn
vậy nhưng nó chật chội vô cùng. Bao giờ trở về quê cũng thấy làng chật hơn thời
mình sống, đấy là nguyên lý, nhưng ở đây, nó chật thật vì người lúc nhúc tăng
mà đất thì chả nở được. Các con ngõ nhiều đoạn phải đi nghiêng. Nhưng nhiều
người còn nhớ tôi. Người quê tốt vô cùng. Họ không trách tôi sao cả mấy chục
năm không về thăm họ, dù suốt thời chiến tranh phá hoại tôi được họ cưu mang
đùm bọc, được cho chơi cùng họ những trò chơi mà chỉ ở nông thôn mới có, cho
cưỡi trâu cưỡi bò, đánh trận chơi khăng đánh đáo... mà chỉ trách về sao không
báo trước, và sao không ở lại lâu, sao không về nhà ăn cơm với họ. Anh bạn học
cũ tên là Phan Quốc Tự, thương binh 1/4, hạng nặng nhất, vẫn còn mảnh đạn trong
đầu, vợ được hưởng lương để nuôi, là người tôi chọn để ăn cơm. Tôi giao hẹn cho
ăn cơm quê. Anh hỏi cơm quê là gì, tôi bảo canh cua cà muối, cá rô đồng. Tốt
nữa thì mắm moi rau diếp hoặc rau ghém. Anh bảo Xời, tưởng gì, có hết. Thế
nhưng khi ngồi vào mâm thì... thịt bò nhúng dấm, thịt gà luộc, cá chép rán, và
có một món quê thật, ngon vô cùng, ấy là... thịt chó nấu rựa mận kiểu Thanh Hóa.
Trước đó, để chuẩn bị cho bữa này, anh lệnh cho cô con gái là giáo viên và cậu
con trai là công an xin nghỉ một buổi để... giúp bố mẹ đón chú Hùng. Chưa hết,
anh mời một ông đầu bếp chuyên nấu cỗ cho làng sang trực tiếp nấu nướng, mời cả
bí thư đảng ủy xã đến cùng tiếp chúng tôi cho sang cỗ... Người quê tấm lòng
mênh mang như thế nhưng kinh tế thì không tỉ lệ thuận. Những người bạn cũ của
tôi, bây giờ thì ra là Tự lại là người khá nhất. Là bởi anh có tiêu chuẩn
thương binh hạng 1/4, con cái cũng nhờ sự mất mát của bố mà được chiếu cố, đứa
giáo viên, đứa công an, dẫu là công an nghĩa vụ. Nhưng thằng rể, chồng đứa giáo
viên ấy, vẫn đang lênh đênh bên trời tây làm thuê, con sáu tháng tuổi mà bố
chưa thấy mặt con và cũng chưa biết lúc nào mới biết. Còn những Bình, Trường,
Sáu, Ân... thì dạt đi làm công nhân, bỏ làng ra Bỉm Sơn, Đồng Giao... nghe nói
đau thương lắm, dù họ cũng đi bộ đội về, có điều, nói ra đau xót, không được là...
thương binh hạng 1/4 như Tự để có chế độ.
Tôi
đã từng viết về nơi ấy như thế này: tôi
tắm Sầm Sơn tôi bơi sông Mã/ tôi qua cầu Lèn ngược phía Triệu Châu/ có một ánh
đèn dung dăng câu hát/ nhoáng chân trần
em cấy trăng rơi/ tan vào tôi giấc mơ ngày tám/ tháng ba chào nón trắng cứ duội
đi/ hoa xoan rắc đầy trời xao xác gió/ chợt là tôi ngơ ngác trước cổng đền...
Và
đây nữa, cũng là một ký ức nông thôn: thấp
thoáng tuổi thơ tôm cua ốc nướng/ quần đùi chân đất ngây ngấy bùn non/ có em
tóc ngắn tròn môi thổi lửa/ căng mỏng nâu non zôn zốt mắt nhìn/ cỏ mềm như đất
ru ngủ ban trưa/ em gánh mùa về rơm vàng như nắng/ nón trắng ngập ngừng triền
đê tóc rối/ có một ánh mắt cánh buồm xa xăm...
Ấy
là khi ngồi ở nơi xa, nhớ về, nhấm nháp, rưng rưng, xúc động vặt... còn khi về
rồi, xếp bằng uống rượu với các bạn thì thấy những câu thơ của mình thật nhạt,
nhạt đến mức bạn biết mình là nhà thơ, bảo đọc một bài thơ đi, bài về Thanh Hóa
càng tốt, con bạn bảo cháu đã nghe Đài tiếng nói Việt Nam ngâm thơ chú, vợ bạn
thì cứ suýt xoa, quý hóa quá, vinh dự tự hào quá, nhà em hôm nay được đón đến
ba bác nhà thơ, bác nào bác nấy đẹp trai là... Thế mà không dám đọc. Ngượng
không dám đọc, nhưng chả lẽ lại ngồi im trước cái thịnh tình của bạn, nhất là
lại đã có tí rượu vào. Thế là tôi xúi ông Lê Huy Mậu hát "Khúc hát sông
quê". Khổ thân ông Mậu, giọng rè như tiếng cưa xẻ gỗ mà phải gồng mình lên
"úp mặt vào sông quê"...
Thôi
thì lấy mấy câu kết thúc bài thơ tôi viết về xứ Thanh để làm kết cho bài viết
vừa lan man vừa nhạt nhẽo này vậy:
Xứ Thanh
thôi đành
tôi mênh lên như tiếng buồm ngược nước...
Đêm 15/6/2009
VCH
9 nhận xét:
"thấp thoáng tuổi thơ tôm cua ốc nướng/ quần đùi chân đất ngây ngấy bùn non/ có em tóc ngắn tròn môi thổi lửa/ căng mỏng nâu non zôn zốt mắt nhìn/ cỏ mềm như đất ru ngủ ban trưa/ em gánh mùa về rơm vàng như nắng/ nón trắng ngập ngừng triền đê tóc rối/ có một ánh mắt cánh buồm xa xăm..."
Hay lắm.
Hay quá bác ơi!
Nhưng bác vẫn còn nợ 1 entry hôm qua đấy nhé!
Hàn NGạc: Cám ơn bạn.
Nguyễn Minh Tuấn: Tớ có hứa gì à? Hôm qua tớ say lại hứa bậy bạ gì à? Nhắc tớ với nhé, biết đâu tớ lại viết được chứ không phải hứa hão...
Đây mới là quê thật. Cảm xúc quá bác ạ!
Nếu VCH viết tiểu thuyết về nông thôn có khi cũng nổi tiếng đấy, vì cách quan sát, giọng văn...đọc cứ như trong một tiểu thuyết hay về nông thôn . Chờ mãi xem cái ngoại tình ở nông thôn nó ra làm sao mà chẳng thấy. Thì ra bị quả lừa !
Bác Phạm Doanh: Hihi là em chờ bác kể cái đoạn ngoại tình nông thôn ấy. em tin chuyện ấy bác sáu câu hơn em chứ, hihi...
Cò Hứa Sơn: Cám ơn bạn. Sợ nhất là viết về quê mà nó lại chả ra quê tẹo nào.
Bác Phạm Doanh: Hihi là em chờ bác kể cái đoạn ngoại tình nông thôn ấy. em tin chuyện ấy bác sáu câu hơn em chứ, hihi...
Cò Hứa Sơn: Cám ơn bạn. Sợ nhất là viết về quê mà nó lại chả ra quê tẹo nào.
Không phải bác hứa gì cả mà là ngày hôm qua bác không đăng entry nào nên khuyết một ngày thứ ba, hì hì
Dân khu bốn ra thủ đô vãn cảnh, Buồn ị quá mới chui vào cái bốt CA (ngày trước, ở ngã ba, ngã tư hay có). Chú công an hỏi:
- Giấy tờ anh đâu?
Đáp:
- Tui có cần giấy tờ chi mô chú. Cần cấy que ni cũng được thôi mà.
Đăng nhận xét