Thứ Ba, 27 tháng 11, 2018

HỌA SĨ XU MAN LÀM... QUAN



           Tôi vừa có chuyển trở lại làng ông Xu Man, rồi lại được biết ở Festival Cồng chiêng Tây Nguyên 2018 sắp tới đây sẽ có một cái triển lãm về ông “Xu Man, những gì còn lại”. Không được hiểu, biết và thân quen ông bằng một số đồng nghiệp khác, nhưng cũng được sống chung với ông một thời gian mấy năm ở khu tập thể Ty Văn hóa Thông tin Gia Lai Kon Tum, rồi khi ông về hưu thì là cầu nối giữa Pleiku với Plei Bông nên tôi ghi lại vài câu chuyện về ông.


           Khi lên Pleiku nhận công tác thì tôi được bố trí ở một gian tập thể cạnh ông Xu Man. Tôi được giới thiệu, đấy là họa sĩ, người Bahnar đấy, nổi tiếng lắm. Chả biết nổi tiếng đến đâu, nhưng chiều Pleiku đầu tiên của tôi, tháng 11, cao điểm mùa lạnh, ông đốt một đống lửa giữa phòng, rồi gọi tôi sang... uống rượu. Mồi là mấy con tắc kè nướng, có chuột nữa, chấm muối ớt. Rượu là rượu mía. Gã sinh viên mới ra trường là tôi rụt cổ lại uống rượu và... ăn mồi.

           Hôm sau thì ông lại... mất hút. Té ra ông Trịnh Kim Sung, trưởng ty hồi ấy, có một quyết định rất nhân văn là, ông cứ tự do về làng, ở bao nhiêu thì ở, bao giờ có việc thì ty gọi lên. “Việc” của ông thường là vài tháng đạp xe lên ty một lần nhận lương và các loại hàng cung cấp theo tem phiếu. Một vài năm có cái trại sáng tác hội họa, mọi người, cụ thể là họa sĩ Nguyễn Viết Huy và anh em phòng văn nghệ chuẩn bị xong hết rồi thì xuống rước ông lên... chủ trì trại.

           Năm 1988, tỉnh quyết định thành lập hội Văn học Nghệ thuật. Ông Trịnh Kinh Sung, một người rất am hiểu và yêu mến văn hóa Tây Nguyên, người rất cởi mở với văn nghệ, khi làm trưởng ty Văn hóa Thông tin đã thành lập một phòng xuất bản tạp chí riêng để... chứa mấy anh em viết lách về đấy, vừa làm tờ Tạp chí Văn Nghệ Gia Lai 3 tháng 1 số, xuất bản sách cho sở và tập hợp anh em sáng tác. Và đây chính là tiền thân của Hội Văn học Nghệ thuật. Toàn bộ phòng văn nghệ xuất bản được tỉnh ủy điều sang hội VHNT. Vấn đề là, trước đấy, với tư cách phụ trách phòng tạp chí xuất bản, tôi cùng ông Sung phải chuẩn bị nhân sự cho hội. Có 3 ông hội viên chuyên ngành trung ương (hồi ấy lực lượng này rất hiếm chứ không dồi dào như giờ) là Xu Man (họa sĩ), Nay Nô (nhà văn) và Y Brơm (múa) tất nhiên là tài sản quý hiếm phải đầu tiên danh sách Ban chấp hành. Ông Xu Man lúc này đã về hưu, về ở làng Bông, được vời lên để... họp Ban chấp hành. Ông vui vì còn được nhớ để mời ông vào BCH (Tỉnh ủy ra quyết định ban chấp hành lâm thời trên cơ sở chuẩn bị của ban vận động thành lập hội), nhưng băn khoăn khi có ý kiến đề xuất ông làm phó chủ tịch dù trước đấy ông đã 2 khóa liên tục được bầu là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nghệ thuật tạo hình (giờ là hội Mỹ thuật) Việt Nam. Chủ tịch hội là ông Sung, đương nhiên rồi. Có 3 người được giới thiệu để bầu lấy 2 làm phó chủ tịch. Ông bảo giờ ông chỉ ở làng thôi, lên đây thì ở đâu, và làm phó chủ tịch không chuyên trách thì... không có lương. Nhưng thôi, thì cứ bầu. Và ông làm phó chủ tịch khóa ấy, chức “quan” to nhất của ông từ ngày hoạt động cách mạng. Và ông làm mà.. chả phải làm gì, vì ông vẫn ở làng.

           Tôi với tư cách chánh văn phòng, thưởng trực hội, sau đấy hay tổ chức các cuộc họp tại... nhà ông. Họp BCH thì một năm 2 lần, có lần ông lên có lần không. Nhưng các cuộc tôi tổ chức xuống làng ông thì vui nổ trời. Nói là với tư cách chánh văn phòng là nói cho vui, chứ chúng tôi toàn tự tổ chức, khi... đói (hồi ấy đói lắm, xuống làng là... no, và không để ý là có khi dân làng còn... đói hơn mình), khi thèm rượu, khi có khách nơi khác đến thì dắt xuống, nhất là các trại sáng tác hội họa sau này toàn mang xuống làng ông làm.

           Mà phương tiện đi, ban đầu là xe... đạp. Thời gian sau là xe máy, chứ ô tô chỉ năm thì mười họa. Mỗi lần xuống làng ông là một dịp làng như... hội. Chúng tôi mua thức ăn từ Pleiku, rượu ghè nhà ông, hoặc dân làng mang đến. Đầu bếp là... tôi, có sự phụ giúp của vài người. Không chỉ những món đơn giản như nướng luộc xào mà có lần chúng tôi làm cả... tiết canh vịt tại nhà ông dù rất ít dụng cụ bếp, kể cả... nước.

           Ông là người đầu tiên chỉ cho tôi biết cây Kơ nia là như thế nào và đập hạt Kơ nia cho tôi ăn khi 2 chú cháu đạp xe từ Pleiku về làng ông một sáng hè. Ông cũng là người giải thích cho tôi biết tại sao đi trong rừng, cứ khi nào đói hoặc mệt lại có một cây Kơ nia hiện ra, như của trời ban cho con người.

           Anh Nguyễn Quang Tuệ, trưởng phòng di sản sở Văn hóa TTvà DL vừa cho tôi biết, ông có một người cháu nội, và may mắn thay, cô bé này vẽ khá đẹp dù chưa bao giờ học hành gì. Anh Tuệ đã thu thập mốt số bức bột màu của cô bé này mang lên hỏi một số họa sĩ và ai cũng công nhận cô bé này vẽ đẹp, dẫu còn hoàn toàn bản năng. Và, cái tên cuộc triển lãm: “Xu man, những gì còn lại” đã có câu trả lời rất thiết thực...

Những ngày cuối đời của ông Xu Man, tôi cùng anh Đoàn Minh Phụng, lúc ấy là TBT báo GL xuống thăm ông. Phụng đang khoe báo GL số tết với ông, tất nhiên ảnh tôi chụp.