Tôi
vừa có chuyển trở lại làng ông Xu Man, rồi lại được biết ở Festival Cồng chiêng
Tây Nguyên 2018 sắp tới đây sẽ có một cái triển lãm về ông “Xu Man, những gì
còn lại”. Không được hiểu, biết và thân quen ông bằng một số đồng nghiệp khác,
nhưng cũng được sống chung với ông một thời gian mấy năm ở khu tập thể Ty Văn
hóa Thông tin Gia Lai Kon Tum, rồi khi ông về hưu thì là cầu nối giữa Pleiku với
Plei Bông nên tôi ghi lại vài câu chuyện về ông.
Khi
lên Pleiku nhận công tác thì tôi được bố trí ở một gian tập thể cạnh ông Xu
Man. Tôi được giới thiệu, đấy là họa sĩ, người Bahnar đấy, nổi tiếng lắm. Chả
biết nổi tiếng đến đâu, nhưng chiều Pleiku đầu tiên của tôi, tháng 11, cao điểm
mùa lạnh, ông đốt một đống lửa giữa phòng, rồi gọi tôi sang... uống rượu. Mồi
là mấy con tắc kè nướng, có chuột nữa, chấm muối ớt. Rượu là rượu mía. Gã sinh
viên mới ra trường là tôi rụt cổ lại uống rượu và... ăn mồi.
Hôm
sau thì ông lại... mất hút. Té ra ông Trịnh Kim Sung, trưởng ty hồi ấy, có một
quyết định rất nhân văn là, ông cứ tự do về làng, ở bao nhiêu thì ở, bao giờ có
việc thì ty gọi lên. “Việc” của ông thường là vài tháng đạp xe lên ty một lần
nhận lương và các loại hàng cung cấp theo tem phiếu. Một vài năm có cái trại
sáng tác hội họa, mọi người, cụ thể là họa sĩ Nguyễn Viết Huy và anh em phòng
văn nghệ chuẩn bị xong hết rồi thì xuống rước ông lên... chủ trì trại.
Năm
1988, tỉnh quyết định thành lập hội Văn học Nghệ thuật. Ông Trịnh Kinh Sung, một
người rất am hiểu và yêu mến văn hóa Tây Nguyên, người rất cởi mở với văn nghệ,
khi làm trưởng ty Văn hóa Thông tin đã thành lập một phòng xuất bản tạp chí
riêng để... chứa mấy anh em viết lách về đấy, vừa làm tờ Tạp chí Văn Nghệ Gia
Lai 3 tháng 1 số, xuất bản sách cho sở và tập hợp anh em sáng tác. Và đây chính
là tiền thân của Hội Văn học Nghệ thuật. Toàn bộ phòng văn nghệ xuất bản được tỉnh
ủy điều sang hội VHNT. Vấn đề là, trước đấy, với tư cách phụ trách phòng tạp
chí xuất bản, tôi cùng ông Sung phải chuẩn bị nhân sự cho hội. Có 3 ông hội
viên chuyên ngành trung ương (hồi ấy lực lượng này rất hiếm chứ không dồi dào
như giờ) là Xu Man (họa sĩ), Nay Nô (nhà văn) và Y Brơm (múa) tất nhiên là tài
sản quý hiếm phải đầu tiên danh sách Ban chấp hành. Ông Xu Man lúc này đã về
hưu, về ở làng Bông, được vời lên để... họp Ban chấp hành. Ông vui vì còn được
nhớ để mời ông vào BCH (Tỉnh ủy ra quyết định ban chấp hành lâm thời trên cơ sở
chuẩn bị của ban vận động thành lập hội), nhưng băn khoăn khi có ý kiến đề xuất
ông làm phó chủ tịch dù trước đấy ông đã 2 khóa liên tục được bầu là Ủy viên
Ban chấp hành Hội Nghệ thuật tạo hình (giờ là hội Mỹ thuật) Việt Nam. Chủ tịch
hội là ông Sung, đương nhiên rồi. Có 3 người được giới thiệu để bầu lấy 2 làm
phó chủ tịch. Ông bảo giờ ông chỉ ở làng thôi, lên đây thì ở đâu, và làm phó chủ
tịch không chuyên trách thì... không có lương. Nhưng thôi, thì cứ bầu. Và ông
làm phó chủ tịch khóa ấy, chức “quan” to nhất của ông từ ngày hoạt động cách mạng.
Và ông làm mà.. chả phải làm gì, vì ông vẫn ở làng.
Tôi
với tư cách chánh văn phòng, thưởng trực hội, sau đấy hay tổ chức các cuộc họp
tại... nhà ông. Họp BCH thì một năm 2 lần, có lần ông lên có lần không. Nhưng
các cuộc tôi tổ chức xuống làng ông thì vui nổ trời. Nói là với tư cách chánh
văn phòng là nói cho vui, chứ chúng tôi toàn tự tổ chức, khi... đói (hồi ấy đói
lắm, xuống làng là... no, và không để ý là có khi dân làng còn... đói hơn mình),
khi thèm rượu, khi có khách nơi khác đến thì dắt xuống, nhất là các trại sáng
tác hội họa sau này toàn mang xuống làng ông làm.
Mà
phương tiện đi, ban đầu là xe... đạp. Thời gian sau là xe máy, chứ ô tô chỉ năm
thì mười họa. Mỗi lần xuống làng ông là một dịp làng như... hội. Chúng tôi mua
thức ăn từ Pleiku, rượu ghè nhà ông, hoặc dân làng mang đến. Đầu bếp là... tôi,
có sự phụ giúp của vài người. Không chỉ những món đơn giản như nướng luộc xào
mà có lần chúng tôi làm cả... tiết canh vịt tại nhà ông dù rất ít dụng cụ bếp,
kể cả... nước.
Ông
là người đầu tiên chỉ cho tôi biết cây Kơ nia là như thế nào và đập hạt Kơ nia
cho tôi ăn khi 2 chú cháu đạp xe từ Pleiku về làng ông một sáng hè. Ông cũng là
người giải thích cho tôi biết tại sao đi trong rừng, cứ khi nào đói hoặc mệt lại
có một cây Kơ nia hiện ra, như của trời ban cho con người.
Anh
Nguyễn Quang Tuệ, trưởng phòng di sản sở Văn hóa TTvà DL vừa cho tôi biết, ông
có một người cháu nội, và may mắn thay, cô bé này vẽ khá đẹp dù chưa bao giờ học
hành gì. Anh Tuệ đã thu thập mốt số bức bột màu của cô bé này mang lên hỏi một
số họa sĩ và ai cũng công nhận cô bé này vẽ đẹp, dẫu còn hoàn toàn bản năng. Và,
cái tên cuộc triển lãm: “Xu man, những gì còn lại” đã có câu trả lời rất thiết
thực...
Những ngày cuối đời của ông Xu Man, tôi cùng anh Đoàn Minh Phụng, lúc ấy là TBT báo GL xuống thăm ông. Phụng đang khoe báo GL số tết với ông, tất nhiên ảnh tôi chụp. |
1 nhận xét:
bài viết hay. cám ơn tác giả
Đăng nhận xét