Nhớ, năm thứ 2 lên Gia Lai làm việc, gần tết, họa sĩ Xu Man từ làng lên cơ quan lĩnh chế độ, tôi giúp ông cột đầy một xe đạp, đủ thứ bà Zằn trên cái xe tòng tọc, được cột thêm mấy thanh tre cho nó chắc chắn. Xong xuôi ông xoa tay, thay vì chào nhau ông cười móm mém: Tết này Hùng về làng ăn tết với chú.
Rồi ông đạp xe đi.
Hồi mới lên nhận việc ở Gia Lai Kon Tum, tôi làm ở phòng văn nghệ Ty Văn hóa Thông tin (tên thời ấy). Phòng có mấy người, trưởng phòng là một trung úy bộ đội biệt phái, phó phòng là một bác hình như làm thông tin trong núi ra, một cô 2 con rồi nhưng rất xinh và năng động, linh hồn của phòng, 1 họa sĩ người Huế, 3 bác, một bác người Jrai và 2 bác Bahnar.
Là tôi nghe thế chứ cả tháng không thấy bác Bahnar thứ 2, nghe nói là họa sĩ. Sau mới biết, bác này được trưởng ty, một người rất tốt và hiểu biết, đặc cách, cứ ở dưới làng, khi nào có việc thì ty gọi lên, bằng đường công văn, hoặc tìm cách nhắn. Khoảng cách gần 50 cây số, phương tiện duy nhất là... xe đạp.
Nên lần đầu tiên chuẩn bị gặp ông tôi đã hết sức hồi hộp. Bởi trước đấy tự tìm hiểu thì biết ông là họa sĩ nổi tiếng, đang là ủy viên ban chấp hành hội Mỹ thuật Việt Nam, rồi có tranh ở bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, rồi, rồi... đầy những giai thoại.
Và té ra tôi đã gặp ông ngay hôm vừa vào cơ quan nhận công tác. Một ông già ăn mặc rất xuềnh xoàng dép cao su đang tha thẩn ở cái bờ rào bằng dây thép gai có những bông hoa tím leo ở đấy, tôi tưởng ông là... bảo vệ.
Và té ra là ông hiền đến kinh ngạc.
Thế nên cái lời hẹn của ông nó như dao chém đá. Tôi “dạ” mà... hoang mang vì chưa biết tết sẽ như thế nào.
Hồi ấy đi lại rất khó khăn, năm đầu tiên lên Pleiku tôi đã không về tết, mà chọn ngày thường mới nghỉ phép về thăm nhà vì dễ mua vé hơn. Năm nay là năm thứ 2, đang lưỡng lự thì được lời mời.
Cũng hồi ấy, tết mà ở tập thể là đồng nghĩa với... đói. Quán hàng không mở, bếp ăn tập thể không nấu, anh em tập thể tự túc. Năm ngoái tôi đã phải tự túc, nấu một nồi cơm, kho nồi thịt ăn mấy ngày tết, buồn thê thảm.
Hai chín tết, tôi rủ anh bạn họa sĩ cùng phòng xuống nhà ông Xu Man, làng (Plei) Bông, xã A Yun, huyện Mang Yang.
Tất nhiên là tôi gói ghém tiêu chuẩn tết mang theo: mấy lạng thịt, mứt, chè..., anh bạn họa sĩ bảo “cẩn tắc vô áy náy” mang theo cặp vẽ, giấy và bút ký họa. Sau mới biết, đấy là kinh nghiệm xuống làng của cánh họa sĩ, vẽ chân dung cho già làng và bà con, sẽ có cơm ăn, rượu uống.
Mượn cái xe đạp, hai anh em thay nhau đạp. Có con dốc dài thăm thẳm phải xuống dắt xe. Giờ có khi đi xe máy xuống đấy còn ngại, mà hồi ấy toàn đi xe đạp. Ông Xu Man thường xuyên đạp xe đã đành, sau này họa sĩ Huỳnh Văn Thuận, một chức sắc của hội Mỹ thuật Việt Nam, họa sĩ lão thành, lớn tuổi hơn họa sĩ Xu Man, cứ mùa khô lại từ Hà Nội vào sáng tác, và cũng toàn đạp xe như thế.
7 giờ sáng xuất phát, phải tròn trưa chúng tôi mới tới.
Ơ kìa lạ quá, chả có một biểu hiện gì của tết cả.
Vẫn biết là thời ấy đói, nhưng ở nông thôn người Kinh, những ngày này cũng rất chộn rộn tết. Những lợn kêu, câu đối, khẩu hiệu, đường làng phong quang vân vân. Ở đây toang toác nắng. Làng vắng huơ vắng hoét, phân bò vương vãi. Vài đứa trẻ bụng ỏng trần trùng trục thơ thẩn dưới gầm nhà sàn...
Té ra người Tây Nguyên bản địa không ăn tết nguyên đán như người Kinh. Ông Xu Man cười móm mém đón chúng tôi, rồi vần một ghè rượu ra, mặc chúng tôi đang đói meo, uống đã.
Tôi xắn tay áo, việc đầu tiên là kêu vợ anh con trai của ông tên Trái đi gùi nước vì tất cả các quả bầu chứa nước trong nhà đều đã khô. Bà vợ ông đặt nồi cơm, tôi chế biến thức ăn từ miếng thịt tôi mang theo treo lủng lẳng trên ghi đông xe đạp và đồ tôi thấy trong nhà ông Xu Man. Có thịt lợn luộc, cá chuồn khô nướng giã với muối và cỏ thơm, rau bí cũng luộc, và cái món sền sệt có sẵn bà vợ ông nấu, gồm lá sắn, cá và ốc suối.
Thế mà kéo tới gần nửa đêm. Là bà con trong làng nghe nói Bok Yơng (tên thật của họa sĩ Xu Man) có khách, họ kéo sang... thăm khách, tất nhiên là kèm những ghè rượu và thức ăn có sẵn ở nhà, đa phần là cá khô hoặc rau bí, lá mì... cứ thế miên man.
Bây giờ, có một vài tài liệu do chính họa sĩ Xu Man viết, rằng hồi nhỏ ông phải đi ở cho địa chủ, tới “hơn 15 năm làm nô lệ, mở mắt chủ gọi đi cày”, tôi thấy có vài điểm cần phải xem lại, một là Tây Nguyên chưa có chế độ chủ nô, nô lệ, không có ông chủ và đầy tớ, và 2, quan trọng hơn, phương thức sản xuất của người Tây Nguyên khi ấy là phát đốt chọc tỉa, không có cày. Tôi đồ chừng rằng khi viết thế, ông được “định hướng” theo một số chủ trương phản đế phản phong thời kì ấy chứ nó không phải là hiện thực ông sống. Họa sĩ Xu Man khi ra Bắc chưa biết chữ, khi học vẽ rồi thành họa sĩ, ông Siu Yơng, lúc về Nam hoạt động, theo yêu cầu của tổ chức là tất cả cán bộ vào miền Nam thời ấy phải lấy bí danh, ông bèn lấy tên mình là Xu Man. Tôi hỏi Xu Man có phải là chú yêu ông nhạc sĩ Su Man nổi tiếng của Đức không, ông lại cười móm mém: không phải, tui có biết ông Su Man nào đâu, Xu Man tiếng Bahnar là “họa sĩ của cách mạng”. Dẫn thế để thấy, ông hết sức quyết liệt yêu cách mạng, hết sức tin tưởng những gì cách mạng làm, nên chuyện ông vẽ về cuộc đời mình rồi chú thích là phải đi ở cho địa chủ, phải dậy sớm đi cày... cũng là một cách hưởng ứng phong trào phản đế phản phong đấu địa chủ một thời của chúng ta.
Ông được Việt Minh giác ngộ rồi đưa ra Bắc học trung cấp Mỹ thuật. Học chưa xong thì lại về Nam hoạt động, sau năm 1975 mới quay ra học tiếp đại học Mỹ thuật. Khi đi ông có vợ, nhưng khi về bà vợ ấy đã có đứa con trai không phải với ông, chính là anh Trái mà chúng tôi cứ ngỡ con trai ông, vì anh này thường xuyên ở cùng ông sau này, tham gia vào mọi hoạt động nhà ông như nhân vật chính, và có việc gì thì chúng tôi thường xuyên trao đổi với anh này. Còn người con trai thứ 2, Krớt, mới chính là con ông với bà vợ sống với ông từ trước 1975, lúc ông vào Nam lần thứ nhất. Krớt như cái bóng trong nhà, như chả liên quan gì, vì lần nào tôi xuống cũng thấy anh này... say rượu nằm vật vờ.
Lương của ông nuôi cả nhà. Trái 9 đứa con, Krớt 7 đứa, cộng thêm 2 ông bà là 22 người. Cuối đời, ông có tiền, rất nhiều tiền. Toàn bộ tranh của ông có người mua hết. Không chỉ bán tranh cũ, người sưu tập tranh còn đặt ông vẽ mới, vẽ bao nhiêu họ mua bấy nhiêu, có những phác thảo rất nguệch ngoạc họ cũng... cân luôn. Một số tiền họ giao trực tiếp cho ông, một số chuyển qua hội Văn học Nghệ thuật, và tôi hay là người cầm tiền về cho ông. Cầm về, hẹn ông cách chi tiêu, tiết kiệm, giữ lại để phòng lúc ốm đau. Ông nghe, gật đầu rồi cười rất... tin tưởng. Lần sau về hỏi, ông bảo: Gần hết rồi. Trái mua xe máy, cho Trái, con Trái. Trái mua xe công nông chở thuê, nhưng mua phải xe đểu, không chạy được nữa. Tôi ra xem mấy cái xe máy dựng lổn ngổn ở sân, cũng toàn xe Trung Quốc, toàn loại xe đểu và đã vỡ hỏng cong vênh hết, chưa tai nạn chết người là may. Nhưng ở trong làng mua thường là đắt gấp rưỡi gấp đôi ngoài phố... May nghe lời chúng tôi, ông mua được mấy con bò, nên mỗi khi chúng tôi về thường không gặp ông ngay được, mà phải lên chỗ ông chăn bò tìm, hoặc Trái lên chở về. Những lúc ông từ chỗ chăn bò về, ông chả khác gì một ông lão Bahnar chưa bao giờ ra khỏi làng... Ấy là những chuyện sau này tôi chứng kiến, còn khi này, lần đầu tiên tôi về nhà ông...
Trở lại những ngày tết ở làng họa sĩ Xu Man, thì quả là những ngày ấy làng vui thật, ít nhất là Xu Man rất vui. Hồi ấy chưa có cái nhà nhà nước xây cho ông (và ông không ở mà chỉ làm kho và có khách, học trò ông về vẽ thì ở), cái nhà sàn của ông luôn đầy khách, những ghè rượu cạn lại được đổ đầy nước, nhạt thì có người vác ghè mới tới. Mà cái giống rượu cần, say một lần là thôi, sau đó uống mãi không say. Có người giải thích cho tôi là càng uống nhiều nó càng loãng. Tôi hẹn con dâu ông vào rẫy thì lấy một ít hoa chuối rừng. Chúng tôi mua gà của dân làng, tôi làm món gà luộc xé bóp bắp chuối, rất hợp... rượu cần. Bà con lần đầu tiên được ăn món ấy, rất thích. Còn họa sĩ Xu Man, ông cười suốt ngày, cứ móm mém thế, và tiếng nói càng say thì càng díu lại, kiểu ai nói nấy nghe.
Tất nhiên anh bạn họa sĩ cũng tranh thủ ký họa mấy bức cho già làng và vài thiếu nữ. Họ rất thích, có hôm vừa sáng dậy đã thấy mấy người chờ ngoài chân cầu thang, họ sang để đợi được... vẽ. Ông họa sĩ càng về sau tốc họa càng nhanh. Bà con nhận, cám ơn, ngắm, chỉ trỏ, cười rồi mang về cuộn lại, giắt vào vách. Cả năm sau chúng tôi quay lại, thấy có nhà vẫn giắt bức ký họa trên vách, mở ra thì đã kịp ám khói đen sì.
Ở 3 hôm. Sáng mùng hai tết chúng tôi lại đèo nhau về phố. Phải ra tới đường nhựa, là đường 19 ấy, mới thấy không khí tết từ những nhà người Kinh buôn bán bên đường, họ treo cờ, có vài chậu hoa mai nữa. Nhưng cửa vẫn đóng im ỉm. Lên phố, vẫn chả quán hàng nào mở, lại nấu một nồi cơm trên bếp điện dây ma so, sang khu gia đình xin nước mắm và dưa cải muối về ăn...
Tất nhiên chuyện ấy từ tết năm 1982, giờ không khí tết thì dưới làng cũng như ở phố rồi, tưng bừng và náo nhiệt như... tết.
Và họa sĩ Xu Man cũng mất vào một ngày giáp tết, hai mươi tám tết năm 2007, chôn sáng ngày 29, tức 30 tết, năm ấy không có 30. Tôi và anh Phạm Đức Long xuống làng đưa ông về cõi...
Báo Gia Lai tết/ xuân Ất Tỵ 2025.
Ảnh: Nhà cháu áo bà ba đen ngồi cạnh Xu Man tại nhà ông. Người ngồi dưới đất là vợ ông.
Bút tích của họa sĩ Xu Man
2 nhận xét:
Hay quá bác "có chi mô nơ"
Hihi cám ơn ạ
Đăng nhận xét