Thứ Năm, 5 tháng 1, 2023

“NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ” (Bản Full)... Gia Lai cà kê.

 

          Hôm kia đi bộ buổi sáng, thấy hai người lụt cụt phía trước. Sương hơi dày nên đi sát mới nhận ra một người là Trần Văn Nghĩa, cựu phó tổng biên tập báo Gia Lai. Nghĩa nắm tay người bên cạnh hỏi, anh biết ai đây không? Tôi nói ngay: anh Kế, Nguyễn Viết Kế. Nghĩa bảo thầy giáo của em đấy. Rồi bắt chụp ảnh tíu tít. Anh Kế cũng mừng, bảo nhớ một thời Pleiku quá, nên có đám cưới học trò là lên ngay, sáng nay dậy đi bộ sớm để ngắm lại quá vãng...

          Tôi cũng vụt nhớ một thời.

          Hồi ấy, cái thời chưa có đại học Quy Nhơn, Đại học Tây Nguyên, Đà Nẵng mới có đại học Bách khoa, đa phần đội ngũ giáo viên, bác sĩ đều từ lò Huế, một số ít lò Vinh, rất ít nữa từ Hà Nội, Việt Bắc...

          Anh Nguyễn Viết Kế là nhóm giáo viên cấp 3 lên từ đại học sư phạm Huế.

          Một hôm, sáng chủ nhật, tôi đang ngồi ở bàn trong phòng tập thể ngó vơ vẩn ra cửa sổ chờ cơm thì một cái xe đạp xịch sát hè, một người nhỏ con da đen dừng xe hỏi với vào, anh có phải Văn Công Hùng không? Vâng em đây. Tôi là Kế, Nguyễn Viết Kế, dạy cấp 3. À em có nghe tiếng anh mà chưa gặp, giờ ngày tốt anh lại tới nhà em. Mình đi bỏ kẹo lạc, sực nhớ Chử Anh Đào nhắc ông ở khu tập thể ni, ghé hú họa vô, may gặp.

          Tôi rót... rượu. Hồi ấy gặp nhau là rượu. Sau này bị bảo là bê tha, nhưng quả là ly rượu nó giải tỏa nhiều thứ, nhất là những buổi chiều Cao nguyên thưa vắng độc thân buồn thiu thỉu. Anh Kế lôi trong cái túi tòòng teeng trên ghi đông xe ra mấy phong kẹo: đi bỏ kẹo lạc, còn một ít biếu ông ăn chơi. Ấy chết, bác mang đi bỏ cho đủ kẻo thiếu vợ la, 2 anh em cười khà khà chiêu ly rượu trắng với kẹo lạc rồi anh lại tất tả đạp xe đi.

          Lại nói đi bỏ rượu. Chử Anh Đào hồi ấy cũng nấu rượu rồi đi bỏ rượu, nhưng cứ xong cuộc về tới nhà là anh... say. Anh cũng thuộc thế hệ lên trước cùng anh Kế, nhưng anh học Đại học Sư phạm Việt Bắc, vào Pleiku từ năm 1977. Anh mới mất cách đây vài năm, vẫn nằm lại Pleiku, chứ thế hệ anh, đa phần đã về quê hoặc đi nơi khác.

          Thì như anh Kế đây, sau đấy về Huế dạy trường Gia Hội, anh Cao Tất Tịnh, người Quảng Trị, sau vào Sông Bé (giờ là Bình Dương), anh Phạm Xuân Soạn về quê đâu đấy ngoài Bắc. Đặc điểm chung của lớp thầy giáo này là dạy văn, yêu văn chương, có sáng tác nhưng không nhiều (trừ Chử Anh Đào, anh Kế cũng đang có 2 cuốn tự truyện).

          Nói về những thầy cô giáo dạy văn có sáng tác hồi ấy có thêm cô Hương Thủy, dạy trường cấp 3 Pleiku 2, sau mới biết là thầy của một số cán bộ chủ chốt của Gia Lai bây giờ, như anh Nguyễn Hữu Quế, giám đốc sở Kế hoạch đầu tư, vừa được bầu làm phó chủ tịch tỉnh. Tôi nhớ từng tổ chức một đoàn xuống sư 332 ở Kon Hà Nừng đi thực tế, khi ấy chưa có huyện K’bang, có Hương Thủy, nhà văn Khuất Quang Thụy, nhà thơ Phạm Đình Ân, sau đấy anh Thụy viết truyện ngắn “Nước mắt gỗ” cực hay... Sau này Hương Thủy về Đà Nẵng dạy ở đấy, thi thoảng học trò cũ mời lên họp lớp, họp trường, nhưng duyên thế nào rất ít gặp nhau dù có nhắn. Duy nhất 1 lần gặp ở sân bay, tôi đi Hà Nội về Transit Đà Nẵng gặp Thủy bay từ Đà Nẵng lên họp lớp học trò mời, thế là tôi thành... khách mời của Thủy đi xe học trò đón từ sân bay về nhà.

          Những người chơi và hoạt động văn chương thời đầu ấy còn có nhóm bác Giáp Kim Liên. Có lần tôi viết, nếu có một ký ức về Pleiku, dứt khoát phải có một khúc về bác Giáp này. Hồi ấy quán cà phê Kim Liên đang ở đường Hùng Vương, và ai đã tới Pleiku đều phải tới quán này để ngồi. Cà phê ngon, một lý do, chỗ ngồi hay, nhạc hợp gu, cũng một phần. Phần nữa là ông chủ quán hiếu khách, lịch lãm, sang trọng và quan hệ rộng. Được chơi với bác Giáp hồi ấy là vinh dự, ít nhất là tôi nghĩ thế khi cũng một hôm, mùng một tết dương, hồi ấy chưa lấy vợ, đương ngủ nướng ở phòng tập thể thì một người đàn ông cao lớn, ria con kiến, áo bỏ trong quần lịch sự (điều rất hiếm hồi ấy, tới mức sau này cụ Võ Văn Kiệt phải có hẳn một cái chỉ thị về việc ăn mặc của công, viên chức, chứ hồi ấy loẹt quẹt dép lê áo quần nhàu nhĩ, tất nhiên là áo ngoài quần) tới gọi tôi dậy. Dụi mắt thì ra là ông chủ quán cà phê mình hay ngồi đồng, cái tết đầu tiên năm 1982 không về nhà, ngồi nguyên 2 ngày ở đấy nghe nhạc và liên tục thay phin cà phê, ông thấy thế ra hỏi thăm rồi quen từ đấy. Nhưng hôm nay ông tới tận phòng ở khu tập thể buổi sáng thì lạ quá. Ông tỉ mẩn lôi trong cái bị treo ở ghi đông xe đạp ra một viên ngói, một lát mỡ heo, một túm thịt bò thái sẵn, một chai rượu. Bảo tôi biết ông một mình ngày tết buồn, tới ngồi với nhau một bữa. Tôi mua lạng thịt bò rồi nhờ họ thái luôn. Hồi ấy, lạng thịt bò có khi hơn cả con bò bây giờ. Phòng ở tập thể bao giờ cũng sẵn bếp điện dây ma so. Kéo ra giữa nhà, đặt viên ngói lên, thả miếng mỡ cho chảy ra rồi áp thịt bò vào viên ngói. Trời ơi, một bữa tiệc tết dương lịch tuyệt vời diễn ra như thế, từ sáng tới 3 giờ chiều. Mà lạ, hồi ấy hầu như không ăn sáng. Mà đúng, một tuần chúng tôi chỉ ăn sáng một bữa, bằng... thuốc. Là thứ 6 thì cầm y bạ sang bệnh viện khai ốm và khám. Ốm hay không, bất cứ bệnh gì cũng có mấy chục viên Xuyên tâm liên và chục viên Tetraciline. Xuyên tâm liên thì vất, nhưng Tetraciline thì đi thẳng lên mấy cái mẹt ở chợ, đổi thành tiền mặt, và sáng chủ nhật thì khoan khoái một tô Ngọc Sơn xong sang cà phê Kim Liên. Hồi ấy cấm vận, cái gì cũng thiếu, nhất là kháng sinh, Xuyên tâm liên là một kiểu kháng sinh lá lảu do ta sản xuất chữa bách bệnh như thế. Nhóm “quý tộc” của anh Giáp còn có anh Vũ Hoàng, Lê Trung, Nho, Đinh Sỹ Minh, Nguyễn Thanh Bình vân vân, tôi chỉ thi thoảng được dự.

Người giỏi tiếng Pháp và chuyên dịch văn chương Pháp ở Pleiku thời ấy là anh Bạch Văn Minh. Anh này cũng người Huế, lên Pleiku dạy học nhưng lại gắn với nghề... trọng tài bóng đá và dịch truyện. Tôi là người thường xuyên sử dụng truyện dịch của anh trên Tạp chí Văn Nghệ, và sau này cũng là người tổ chức in cuốn “mối tình câm” thành sách, truyện Nga nhưng anh dịch qua tiếng Pháp, có cái truyện Talico của Đum Bát Giê rất nổi tiếng. “Mối tình câm” là tôi đặt cho hợp với dòng sách hồi ấy, in tới 30 ngàn bản, anh mua cho vợ được 2 chỉ vàng, còn lại nhậu một trận, dù anh không biết nhậu.

Rất muốn nhắc tới hai người cũng nổi tiếng hồi ấy là anh Ngọc Kỷ (đã mất) và chị Hồng Vân, giờ thành bà chủ ở Sài Gòn. Anh Kỷ làm thơ, chị Vân làm được tất cả mọi thứ, một người mà tôi từng đoan chắc, nếu kiên trì đi với văn chương, chị sẽ là tác giả lớn. Chị Vân là người đầu tiên đón tôi bước chân đầu tiên vào phòng Văn nghệ Ty Văn hóa Thông tin Gia Lai Kon Tum ngày 26/11/1981. Nhưng bài đã hết hạn chữ cho phép, đành để lần sau vậy...

Ông giáo Kế và nhà cháu bất ngờ gặp nhau ở quảng trường khi đi bộ buổi sáng

 

                                                                                 

Không có nhận xét nào: