Không
nhớ là năm nào nữa, lâu lắm rồi, cái thời còn bao cấp ấy, một lần ghé Nha
Trang, hẹn mấy anh em ngồi với nhau. Hồi ấy ngồi vui lắm. Là cứ hẹn thế còn...
tiền đâu mà ngồi thì không biết. Có lần hẹn rồi thấy ông họa sĩ Văn Vết xuất hiện,
ông bảo cứ kêu đồ đi. Đồ tức là chai rượu nút lá chuối và ít khô cá biển. Rồi
ông xách cái túi đi. Mấy người bảo, yên tâm rồi, thế là có tiền rồi. Một lúc
ông về xòe ra nắm tiền thật. Thì ra là ông đi... đánh độ bóng bàn. Ông này đánh
bóng bàn rất siêu. Siêu hơn là cái vợt của ông, mặt mút mặt gai. Cái mặt gai
ông lại bóc xung quanh đi chỉ còn
gỗ, phần gai để lại chỉ lớn
hơn đồng xu một chút. Đang đánh bình thường, ông xoay mặt vợt, cóc một cái là
bên kia mất phương hướng, hoặc đỡ vổng
lên để ông tiu, hoặc đỡ bóng ra ngoài...
Thì
trong một lần mấy anh em văn nghệ ngồi với nhau như thế thì ông nhà thơ Trần Chấn
Uy chở tới một ông già khá hom hem và luộm thuộm nữa. Nghĩ chắc người nhà ông
Uy ngoài quê mới vào, ổng chở tới
chơi luôn.
Nhưng khi vào, ổng mới trịnh trọng giới thiệu: "Nhạc sĩ Tố Hải, Đăk Rông
mùa xuân về".
Chỉ
thế là đủ, tôi quấn lấy ông suốt buổi, vì cái bài này hầu như ngày nào tôi cũng
nghe, không trên Radio thì trong các cuộc nhậu, các
cuộc họp và cả... đám cưới. Ông thì lại cũng thích tôi khi nghe tôi giới thiệu từ Pleiku xuống, và biết chút chút chuyện Tây Nguyên.
Tất
nhiên là ông hát, hát cái bài ai cũng có thể hát được nhưng hát hay được là rất khó ấy. "Chim kơtia bay tới/ nghiêng cánh
chào Đăk Rông/ Pơ lang khoe sắc thắm/ gió đưa hương đôi bờ... Tây Nguyên ta uống
nước một nguồn nước cách mạng... Đăk Rông ơi, Tây Nguyên ơi/ Tôi hát cho dòng
sông Đăk Rông mãi chảy xiết/ Tôi hát cho nhà rông đêm ngày luôn đỏ lửa, cho tiếng
đàn ngân vang, vang điệu cùng dòng suối..." cả bàn vỗ tay theo rầm rập.
Ông hát rất hay. Tôi chơi và
quen với nhiều nhạc sĩ, nhưng nhạc sĩ hát hay được rất ít. Ông hát cuồn cuộn
như sông, nhưng cũng bảng lảng như K'tia, thiết tha như mùa xuân đậu vai áo cô
gái Trường Sơn và cũng sâu lắng như tình yêu cách mạng...
Và sau này tôi cũng từng được
ngồi ở bờ sông Đắk Rông ấy.
Một ngày mất điện ở Đông Hà,
mấy anh em báo chí văn chương Quảng Trị chở tôi chạy một hơi lên bờ sông ấy, ngồi
ngay trên bờ, một cái quán lá, nép vào bụi tre. Chúng tôi cũng hát vang bài hát
Đăk Rông mùa xuân về.
Ông Tố Hải kể, ông ấp ủ bài
hát lâu lắm, từ Mậu Thân 1968, nhưng phải đến đầu năm 1975, khi đang ở... Hà Nội,
nghe tin Quảng Trị giải phóng thì ông mới bật ra hoàn chỉnh bài hát, và nó nổi
danh từ bấy tới giờ. Nhiều bài hát có những số phận kỳ lạ, từng rất nổi tiếng,
rồi chìm lỉm đi đâu đấy. Bài này, cho tới giờ, đi dự đám cưới, tôi vẫn thấy nhiều
người hát, dù nó đòi hỏi giọng hát phải mang tính chuyên nghiệp cao, tóm lại là
khó hát.
Và ông Tố Hải cũng bảo, nó
không chỉ là Đăk Rông Quảng Trị. Mà nó là các con sông Tây Nguyên. Cho nên,
giai điệu, hình ảnh trong bài hát là Tây Nguyên, một Tây Nguyên rất đặc trưng
và dễ nhận biết. Một Tây Nguyên khiến rất nhiều người chưa từng biết Tây Nguyên
vẫn có thể hình dung ra mồn một. Giai điệu Tây Nguyên và hình ảnh lại càng Tây
Nguyên, với những nhà rông, lửa, chim ktia, cây k'nia... và vấn đề là, nó hết sức
nhuần nhuyễn, gắn kết với nhạc chứ không như các bài hát địa phương ca khác, liệt
kê địa danh, sản vật vào cho nó ra địa phương nhưng cứ lổn nhổn như... răng khểnh
cả hàm. Có thể kể thêm trường hợp bài hát "Em là hoa Pơ Lang" của nhạc
sĩ Đức Minh. Theo chỗ tôi được biết, khi sáng tác bài hát này, nhạc sĩ Đức Minh
chưa từng tới Tây Nguyên.
Nhưng đây là tôi đang viết về
những dòng sông Tây Nguyên kia, nên bỏ qua câu chuyện cũng rất hay về bài hát
"Em là hoa Pơ Lang" mà tôi trực tiếp được nghe nhạc sĩ kể. Tây Nguyên
có những dòng sông nổi tiếng như hệ thống Sê San, sông Ba, Krông Nô, Krông Na
vân vân, có những con sông như một bài thơ viền quanh đô thị như sông Đăk Bla với
thành phố Kon Tum, sông này có một đặc trưng rất lạ nữa là, nếu như các con
sông Việt Nam khác đều chảy xuôi, từ Bắc vào Nam, từ Tây xuống Đông, thì nó lại
chảy ngược, từ Tây Nguyên chảy ngược Trường Sơn. Con sông này dài 139 km, bắt
nguồn từ chân núi Ngọk Linh ở huyện Tu Mơ Rông, Kon Tum, xuôi theo hướng Tây –
Đông, khi đến huyện Kon Rẫy, sông lại ngoặt về hướng Bắc – Nam và đến thành phố
Kon Tum thì nó lại ngoặt hướng Đông – Tây. Con sông Ba cũng chảy ngược khi nó
vòng qua thị xã An Khê, Gia Lai, uốn lượn để qua thị xã Ayun Pa, rồi mới chịu
xuống Tuy Hòa để nhập vào sông Đà Rằng.
Thì chuyện con sông Pô Kô với
người lái đò "huyền thoại" A Sanh không lạ à?
Tôi là một trong những nhà
báo đầu tiên "phát hiện" ra ông A Sanh, bởi khi chúng tôi gặp, ông
tên là... Puih San kia.
Trên dòng sông Pô Kô qua
đất Ia Grai của tỉnh Gia Lai thời ấy có ba bến đò, hồi ấy gọi là phà, là phà 6
phà 8 và phà 10. Phà 6 và 10 đã chìm theo thủy điện Sê San rồi, giờ chỉ còn phà
8. Người Jrai vùng này có nghề đẽo thuyền độc mộc từ cây rừng, bơi lặn rất giỏi
và đánh cá cũng cừ. Tiểu đội chèo thuyền độc mộc đưa bộ đội sang sông, phục vụ
quân đội được tuyển từ những chàng trai người Jrai ưu tú nhất, Puih San là một
trong những chàng trai ưu tú ấy…
Khi tôi đến lần đầu thì
thấy con sông Pô Kô qua đoạn này rất nhỏ, nước xanh biếc, lững lờ chảy. Cố hình
dung những ngày bom đạn, những đêm đưa bộ đội qua sông của tiểu đội thanh niên
Jrai với những lúc dòng sông hung dữ cuộn lên, đục ngầu màu đỏ của bụi ba zan
và cả máu mà rất khó. Nói chuyện qua sự phiên dịch của chị Cải, người đàn bà đã
đi qua chiến tranh, nói tiếng Jrai như người Jrai dù chị là người Kinh thứ thiệt,
chúng tôi biết Puih San và tiểu đội của ông đã có 3000 đêm không ngủ để đưa bộ
đội và vũ khí các loại qua sông. Ba nghìn đêm, các chàng trai Jrai này đã bảo đảm
giao thông thông suốt, đưa hàng ngàn bộ đội qua sông, hàng vạn tấn vũ khí vào
chiến trường, và cũng như thế, các thương binh trở ra…
Đêm ấy, thương binh về
nhiều. Hai bộ đội cáng một thương binh. Con thuyền độc mộc của ông đã có gần mười
cái võng xuống, tức là đã gần ba chục con người, trong khi thuyền ông chở hết cỡ
cũng chỉ không quá mười lăm người. Ai cũng vội sang sông nên không ai chịu xuống
chờ chuyến sau. Đã có to tiếng xảy ra. Ông lên bờ ngồi khóc vì bất lực, nhưng rồi
thương binh vẫn về, máy bay thì quần đảo. Thế là ông tặc lưỡi. Ra đến giữa
sông, một loạt bom phía thượng nguồn. Hơi bom khiến thuyền lật. Tối mò mò. La
hét thất thanh một hồi rồi tất cả im lặng, im đến rợn người. Tối đen, bóng tối
như có thể thò tay bốc được từng mảng. Tay ông vẫn cầm mái chèo. Sức ông chỉ mấy
sải là đã tới bờ. Một số bộ đội khỏe mạnh cũng bơi được, nhưng thương binh phần
lớn là chìm hết. Tối quá, không thể thấy ai để cứu. Im lặng. Im lặng đến rợn
người. Như chưa từng có ai qua sông. Như chưa từng có trận bom trước đó…
Ông bỏ lên bờ, thề không
bao giờ bước chân xuống nước nữa.
Đại tá Lâm Huế, là người Huế nhưng suốt thời quân
ngũ cho đến giờ ông gắn bó với Tây Nguyên, khi ấy là trung đoàn trưởng, giờ về
hưu và vẫn ở tại thành phố Pleiku, kể rằng: “Thời đó bom đạn ác liệt vô cùng vì
địch biết đây là cửa khẩu huyết mạch của chiến trường Tây nguyên và Lào. Chúng
vãi bom đạn như mưa, không kể ngày đêm. Thế mà kỳ lạ, dưới những cơn mưa bom đạn
ấy, hàng ngàn quân vẫn lần lượt qua sông, dưới tay chèo Puih San”... Rơ Chăm
Lim, một trong những tiểu đội trưởng tiểu đội lái đò trên dòng sông pô Kô năm
nào, sau này sống ở xã Ia Khai huyện Ia Grai thì kể: “Để đưa bộ đội qua sông an
toàn phải bố trí đến ba tiểu đội, ngoài tiểu đội chèo đò còn có một tiểu đội phụ
trách phòng không đề phòng máy bay Mỹ thả bom, rồi một tiểu đội bảo vệ ở
phía bờ bên kia đề phòng địch từ phía Campuchia tràn sang”…
Chuyến đi ấy khi về tôi đã viết về ông, viết
về những gì tôi được nghe, đã thấy, và cả bằng cảm xúc của một kẻ hậu sinh lần
đầu đến cái nơi tưởng như sẽ không bao giờ được tới. Viết bằng tất cả sự chân
thành với một sự ngưỡng mộ thánh thiện. Bài đầu tiên đăng trên tạp chí Văn Nghệ
Gia Lai. Hồi ấy công trình nhà máy thủy điện Ia Ly đang hồi xây dựng tấp nập,
lúc cao điểm nhất có đến 25 ngàn công nhân và kỹ sư làm việc trên công trường.
Công ty Sông Đà 8 có một ông giám đốc rất hay đọc báo. Một hôm ông đọc bài của
tôi trên tạp chí, rồi trong giao ban cả công ty, ông đưa bài này ra đọc cho tất
cả công nhân nghe, thảo luận, học tập, noi gương… và cuối cùng thì… quyên góp.
Ngoài phần của công ty, của công đoàn, đoàn thanh niên công ty, thì cán bộ công
nhân viên công ty đều đóng góp từ tiền túi của mình… Lúc này Puih San đang rất
nghèo, sự chi viện của công ty Sông Đà 8 rất đúng lúc. Sau đấy nữa thì nhiều cơ
quan, đơn vị, cá nhân giúp đỡ ông, làm được cái nhà và sắm vật dụng tạm đủ.
Có một chi tiết là, khi
viết bài hát “Người lái đò trên sông pô Kô”, cả nhạc sĩ Cầm Phong và nhà thơ
nhà báo Mai Trang đều chưa ai biết… A Sanh. Mà thời ấy, khi bài hát đã nổi tiếng thì bộ đội ai qua sông cũng
đều gọi những người lính lái đò là A Sanh, cứ A Sanh ơi cho qua sông với là một
con đò lao vút sang đón người…
A Sanh trở thành tên gọi chung cho những người
lái đò chở bộ đội và vũ khí qua sông, con sông Pô Kô chảy ven biên giới Việt
Nam Cam Pu Chia kéo dài từ Kon Tum xuống Gia Lai như thế.
Bài hát ấy hay lắm, bây giờ vẫn còn nhiều người
hát. Trên xe của tôi cũng có bài hát này, và mỗi khi nghe tôi vẫn nổi da gà.
Giai điệu da diết mà bâng khuâng, nồng
thắm và sâu lắng nhưng lại cũng rất hào hùng cứa vào lòng người chứ không thấy
không khí chiến tranh đâu cả. Nó được liệt vào nhóm bài hát "Những bài ca
đi cùng năm tháng".
Tôi từng có
phát hiện thú vị, ấy là các
ca khúc Việt Nam viết về những nhân vật cụ thể, thường là khi người ấy đã mất
(trừ lãnh tụ), như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Kim Đồng, Nguyễn Bá Ngọc, Chị Sáu vân vân, nhưng ở
Gia Lai lại ngược lại, ấy là ngay khi còn sống, có tới ba ông, 2 ông chưa phải
là anh hùng, nhưng đã là nhân vật của các bài hát, và bài nào cũng nổi tiếng, sống
lâu, được nhiều người yêu thích và hát, ấy
là ông Núp, ông Bùi Ngọc Đủ và ông A Sanh này.
Sau khi được
báo chí "phát hiện" A Sanh chính là trung úy Puih San, ông được phong
anh hùng lực lượng vũ trang, và một năm sau thì ông mất.
Còn đến mấy
con sông nữa, nhưng biết làm sao, chuyện thì nhiều mà diện tích báo có hạn.
Những con sông vẫn muôn đời thao thiết chảy. Và nó
chứa trong mình biết bao ký ức, có cái đã lộ, có cái mãi mãi bí ẩn. Và chính những
bí ẩn ấy, nó làm cho những con sông trở nên huyền hoặc hơn. Sông ở Tây Nguyên
đã góp cho cuộc đời những câu chuyện đẹp, và những tác phẩm nghệ thuật hay,
không chỉ âm nhạc, mà còn cả các thể loại khác, có điều kiện chúng tôi sẽ xin
trở lại...
(Báo Nhân dân chủ nhật ạ. Số phát hành hôm nay, 16/4/2020).
Đẫy trang nhé |
7 nhận xét:
Bài hay, cái title càng hay hơn. Ông đã có công làm mềm hóa ND.
Hỡi Pô Cô ơi !
Dòng sông mênh mông
Đôi bờ cây xanh biếc nước chảy xiết sâu thẳm
Qua tháng ngày hỏi sông ơi có biết
Anh lái đò tên gọi A Sanh A Sanh
Hôi ở lính đại đội tôi có ông hay hát bài này. Nghe thchs lắm, ông làm tôi nhớ thời đi lính.
Cám ơn cụ Hà Tùng Sơn ạ, hihi
Bóng người. Bóng cây. Bóng núi. Nhưng ít ai nghĩ đến bóng làng. Nhà thơ Trần Chấn Uy, đài PTTH Khánh Hòa, đã chọn 'BÓNG LÀNG' đặt tên cho một tập thơ của cậu ấy vừa xuất bản năm rồi. Mình cũng có được một tập không tốn tiền mua. Trẻ. Sung. Có cách viết lạ, đầy ắp tứ hay. Buồn vì hò vè, diễn ca quá nhiều trên face book hằng ngày nhưng cũng rất vui, tin yêu vào lớp trẻ như Chấn Uy.
Ahuhu báo cáo cụ là Trần Chấn Uy không trẻ nữa ạ, về hưu rồi thì trẻ gì nữa ạ...
Xin lỗi Anh VCH. Gặp, cùng đàm đạo, làm việc trên lĩnh vực khác, không dính gì đến văn học nghệ thuật. Cậu ấy chừng 56-57. Sơ ngộ nên không hỏi tuổi tác làm gì. Giữa một rừng khộp, à quên, rừng già, Chấn Uy hiện ra trẻ trung. Ấn tượng mãi nên nói thế. Hình như cậu ấy có cái số cuối điện thoại rất ư là...phong thủy, 2345 thì phải.
Chính xác ạ, hihi, cụ thêm một lần tài, tài thặc, tiên sư anh... Tào Tháo.
Đăng nhận xét