Mỗi
vùng, mỗi địa phương, mỗi địa bàn cư trú đều có sản vật của riêng mình. Sản vật,
hiểu theo cách đơn giản nhất, là thứ đặc sản mà chỉ vùng ấy có còn vùng khác
không có, hoặc là nhiều nơi có nhưng chỉ ở đấy mới ngon, do thổ nhưỡng, khí hậu,
địa lý... hoặc cả là nhờ con người. Tóm lại nó là món ngon, hơn người và khác
người.
Gia
Lai ngoài người Jrai, Bahnar bản địa thì còn dân cư ở nhiều nơi khác đến sinh sống.
Và mỗi cộng đồng dân cư lại có một món sản vật riêng để khoe, để thể hiện, để tự
hào, để thỏa mãn hoài niệm ký ức hoặc là tôn vinh hiện tại.
Thì
cái món bún cua chợ Nhỏ ấy, nó chính là do người Bình Định đưa lên, xuất phát
là món ăn của con nhà nghèo, rất nghèo, giờ cũng trở thành sản vật của Gia Lai
dù nói thật, vẫn không phải nhiều người ăn được.
Sản
vật, nhiều khi là sự... quay lại. Những thứ dân dã thôn quê, món ăn con nhà
nghèo một thời, giờ cũng thành sản vật.
Cái
củ khoai Lệ Cần là thế. Ngày xưa hết gạo thì phải độn thêm khoai hoặc ăn khoai
trừ bữa. Và nó có mặt ở khắp nơi trên đất nước này. Thời sinh viên của tôi cũng
gắn với... khoai, mà khoai vùng cát kia, cũng ngon kinh lắm. Đến mùa, mẹ mua
khoai về luộc, rồi xắt ra phơi, làm khoai reo (hay deo giờ tôi cũng vẫn không
phân biệt được) gửi lên ký túc xá cho tôi ăn dặm. Đến 2 anh em, anh học đại học
Tổng hợp, em đại học Sư Phạm, anh em chúng tôi trưởng thành từ những miếng
khoai deo ấy. Thế nhưng khi lên Gia Lai, tôi “vấp” ngay 2 câu thơ của nhà thơ
Xuân Diệu “Cảm ơn vợ chồng anh giáo Huế/ Đãi tôi một bữa Lệ Cần khoai” thì
khoai Lệ Cần đã đã chết tên là một sản vật Gia Lai. Ngoài sự ngon thật sự thì
thi ca đã chắp cánh cho nó, dù nhiều người băn khoăn: Vậy thì câu thơ của nhà
thơ lớn Xuân Diệu hay ở chỗ nào?
Thuở
chưa phát triển, chưa xoong nồi, chưa đồ sắt đồ đồng đồ nhôm inox như bây giờ
thì người ta dùng... nứa thay nồi. Thế là có món cơm nướng ống nứa tuyệt vời, để
giờ, giữa thời đại nồi cơm điện bếp từ, nó lại lên ngôi. Tôi không gọi cơm
“Lam”, bởi Lam là động từ của người dân tộc phía bắc chỉ hành động nướng trên lửa,
lam cá, lam cơm, lam rau... rồi từ cơm lam bắt nguồn từ đấy, du nhập vào Tây
Nguyên, và người ta hồn nhiên gọi nó như một danh từ. Người Tây Nguyên có tên gọi
riêng cho loại cơm nấu trong ống nứa (lồ ô/ vầu...) này, nhưng thôi, gọi chung
là cơm ống nứa, chứ không phải lam đâu.
Món
nướng cũng thế. Chưa có xào nấu chế biến gia vị tinh tế như bây giờ, người ta
nướng nguyên con, gà ư, bò ư, heo ư... rồi tiến lên chế biến đủ thứ, cầu kỳ
tinh xảo... để giờ, nguyên con gà nướng bếp than lại lên ngôi. Khách phương xa
đến Tây Nguyên là đòi đi ăn cơm ống gà nướng, nguyên chất, chỉ chấm muối
thôi...
Trời
phú cho Gia Lai là nơi có nhiều sản vật tụ hội. Nguyên bản có, du nhập nơi khác
vào có, đủ để con người có thể trải nghiệm và thưởng thức. Ai lại nghĩ ở ngay
Phú Thiện, bốn phía là núi bao bọc, lại có thể có một đầm sen rộng đến hơn 10
héc ta, mới vào cứ tưởng như đang ở Đồng Tháp Mười. Nhưng Đồng Tháp Mười thì
không có núi. Ở đây, sen chạy suốt tận chân... núi, chứ không phải chân trời
như sen Đồng Tháp Mười. Điều thú vụ chính là chỗ ấy, “hơn người” chính là chỗ ấy.
Như
món phở khô. Thực sự nó cũng là một dạng biến tấu từ hủ tiếu, cái món tương
đương phở phía Bắc, tràn ngập khắp phía Nam.
Thì
đang ăn nước, ăn mãi cũng... ngán, làm riêng ra, nước ra nước, phở ra phở, khi
ăn thì trộn cho thật đều, rồi ăn, đũa gắp phở thì tay múc nước. Ban đầu là từ
phở gà Ngọc Sơn, lừng danh từ trước 1975, sau đó phở Hồng phăng tê di thành phở
bò, thay gà bằng bò, thay bằng cho thịt lẫn vào phở thì cho bò xắt mỏng vào tô
nước dùng sùng sục nóng. Và giờ thành đặc sản. Tất nhiên không phải ngày một
ngày hai nó có thể trở thành đặc sản ngay. Nó là một quá trình, thứ nhất là chủ
món đặc sản liên tục “nâng cao tay nghề”, thứ hai là người dùng ủng hộ và chia
sẻ. Dẫu vậy, đến giờ không phải ai cũng đã biết cách ăn phở khô, nên rất cần
các chủ quán hướng dẫn, hoặc chính khách ăn bản địa bày cho người phương xa tới.
Em ruột tôi ở Huế lên, vì có việc tôi phải nhờ một anh bạn cũng là nhà văn đưa
đi ăn sáng. Anh bạn thật thà, cứ cắm cúi ăn, em tôi sau một hồi loay hoay
bèn... đổ ụp bát nước, lúc này đã nguội, vào ăn và vừa ăn vừa... nhăn mặt. Mới
nhất, một đoàn nhà báo nhà văn, giáo sư... lớp Ngữ văn K18 Đại học Tổng hợp Hà
Nội vào Pleiku offline, rút kinh nghiệm em tôi, tôi phải hướng dẫn từng người
cách ăn, còn hỏi, nếu ai không thích ăn khô thì có thể kêu phở nước. Và họ phải
làm từ đầu là phở nước, chứ bê ra rồi tự đổ nước vào thì nó là một thứ... cháo
dây nhệch nhạc chứ không phải phở khô nữa?
Bò
một nắng bây giờ cũng từ món nai biến thể. Xưa, dân làng săn được con nai, ăn
tươi không hết, bèn phơi qua nắng, mà phải là thứ nắng Krông Pa ấy, nắng giòn
và tươi như... nắng ấy, rồi gác gác bếp, khi ăn mang ra nướng lại xé chấm kiến
(vì hồi ấy muối quý hơn... kim cương). Giờ nai chuyển thành bò, mà bò Krông Pa
cũng là giống bò cỏ cực ngon. Đơn giản thế mà giờ là đặc sản, có khắp nước rồi.
Đặc
sản là cứ phải nếm, phải thử, chữ chả thể nào tải hết được dù người viết có tài
đến đâu. Mà nó lại còn phụ thuộc vào gu, vào ý thích riêng từng người nữa. Nhưng
mà quả là, kể mà có thời gian, hoặc điều kiện, nếm thử hết những đặc sản của
Gia Lai, cả thứ đang lẩn khuất trong đời sống lẫn những thứ đã khẳng định
thương hiệu, đã được bảo chứng, có được “vua biết mặt chúa biết tên”, thú phết.
Thì cứ là ước thế, khi nào đạt được tính sau...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét