Cứ
mịt mù đi như thế, chừng 10 giờ đêm thì đến bến xe Pleiku. Tôi nhoài người ra cửa
sổ. Ơ kìa, có điện, tôi reo thầm trong bụng. Bến xe nằm trong um tùm cây cổ thụ
nên vài cái bóng điện 220 nhưng hiệu điện thế chỉ 110 đỏ quạch chả đủ để tôi
hình dung nó ra làm sao. Lại chui vào một cái phòng trọ tồi tàn ngay cổng bến
xe. Từ khi lên xe ở Huế, đây là đêm thứ 3 tôi ngủ nhà trọ. Đêm thứ nhất là ở bến
xe Đà Nẵng. Đêm thứ 2 bến xe Quy Nhơn, và đêm thứ 3 là ở đây, nơi tôi sẽ nhận
công tác vào ngày mai. Nhìn xuôi xuống dốc Hội Phú vào trung tâm Pleiku theo
tay chỉ của một chị buôn chuyến khi tôi hỏi Pleiku chỗ nào, tôi thấy một màn
đen thăm thẳm, thi thoảng vài bóng điện nhạt nhòa bị sương phủ, trông như những
ngôi làng sau chiến tranh tôi đọc trong tiểu thuyết nước ngoài từ thời còn học
phổ thông.
----------------
Đến
bây giờ tôi cũng không cắt nghĩa được con đường nào đã đưa tôi từ Huế lên
Pleiku ngay khi vừa tốt nghiệp đại học.
Cái
thời năm 1981 ấy không mấy người biết Gia Lai Kon Tum là ở đâu. Một số người
yêu nhạc Phạm Duy (yêu... lậu thôi vì đang bị cấm) thì biết đến “em Pleiku má đỏ
môi hồng/ ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông”. Tôi là một trong số những người
yêu... đơn phương như thế.
Chúng
tôi là lứa sinh viên khóa 1 của trường Đại học Tổng hợp Huế đào tạo sau ngày thống
nhất, nên có thể nói rằng, đây toàn gạo trên sàng, cả dải Miền Trung muốn đi
đâu thì đi, thậm chí cả Hà Nội, Sài Gòn, thế mà vẫn có dăm gã ghi nguyện vọng
lên Tây Nguyên rồi cặm cụi đeo ba lô lên đường.
Tôi
đi xe đò 3 chặng, mất đúng 3 ngày mới lên tới Pleiku.
Chiều
chênh vênh thì cái xe Desoto chạy dầu khói mù mịt vượt đèo An Khê. Đèo Ngang,
đèo Hải Vân tôi đã qua vài lần, còn đèo An Khê thì đây là lần đầu tiên. Con đèo
trườn giữa mây, giữa rậm rịt rừng. Cậu lơ xe chạy tà tà sau xe tay cầm cục gỗ sẵn
sàng chèn vào bánh nếu xe... bị lùi. Từng tốp phụ nữ người Tây Nguyên, sau tôi
mới biết là người Bahnar, đeo gùi đi hàng một lầm lũi trong chiều chạng vạng ám
ảnh tôi kinh khủng. Những đàn dê nhởn nhơ gặm cỏ ven đường khiến khung cảnh vừa
thanh bình, vừa buồn...
Cứ
mịt mù đi như thế, chừng 10 giờ đêm thì đến bến xe Pleiku. Tôi nhoài người ra cửa
sổ. Ơ kìa, có điện, tôi reo thầm trong bụng. Bến xe nằm trong um tùm cây cổ thụ
nên vài cái bóng điện 220 nhưng hiệu điện thế chỉ 110 đỏ quạch chả đủ để tôi
hình dung nó ra làm sao. Lại chui vào một cái phòng trọ tồi tàn ngay cổng bến
xe. Từ khi lên xe ở Huế, đây là đêm thứ 3 tôi ngủ nhà trọ. Đêm thứ nhất là ở bến
xe Đà Nẵng. Đêm thứ 2 bến xe Quy Nhơn, và đêm thứ 3 là ở đây, nơi tôi sẽ nhận
công tác vào ngày mai. Nhìn xuôi xuống dốc Hội Phú vào trung tâm Pleiku theo
tay chỉ của một chị buôn chuyến khi tôi hỏi Pleiku chỗ nào, tôi thấy một màn
đen thăm thẳm, thi thoảng vài bóng điện nhạt nhòa bị sương phủ, trông như những
ngôi làng sau chiến tranh tôi đọc trong tiểu thuyết nước ngoài từ thời còn học
phổ thông.
Bây giờ thì, những
chuyện trên đã là ký ức, Pleiku đã trở thành đô thị loại 2, đang chuẩn bị lên
đô thị loại 1. Tây Nguyên trở thành một điểm nhấn quan trọng trên trục giao
thông Bắc Nam, Đông Tây.
Có thời tôi đã hết
sức ngạc nhiên khi thấy trên Tây Nguyên có dấu tích của biển và của văn hóa
Chăm. Ngay trên con đường 19 nối Quy Nhơn lên Pleiku để tỏa đi Tây Nguyên, con
đường mà năm 1981 tôi đeo ba lô lần đầu lên ấy, có một tấm bia có chữ Chăm cổ.
Nghi hoặc, hay là có cuộc tạo sơn nào đấy mà cái bia ấy dạt lên đây, bởi người
Chăm chủ yếu sống ở ven biển miền Trung, dù các tháp Chăm luôn đặt trên khu vực
núi. Mày mò mãi thì nhà nghiên cứu Chăm nổi tiếng Trần Kỳ Phương giải thích rằng,
có một “con đường Chăm” kéo từ biển Miền Trung, qua Tây Nguyên, sang Ratanakiri
của Cam Pu Chia đến tận Ăng Ko Vát Ăng Ko Thom. Ra thế, những tấm bia và nền
tháp cũ nói lên điều ấy. Và cũng nói thêm điều này nữa, ấy là những nơi có tháp
Chăm thường là những nơi giàu có. Thường thì các trung tâm kinh tế hay nằm sát
các trung tâm văn hóa, ông Trần Kỳ Phương giải thích với tôi như thế.
Giáp tết này,
tôi vừa đi một vòng biên giới.
Té ra bên cạnh
những con đường tấp nập trên Cao Nguyên như đường 14, 19, đường Hồ Chí Minh,
thì còn những con đường len lỏi trong rừng già. Có thể là đường dân sinh, là những
con đường nội bộ của các công ty cao su, và hoặc là đường tuần tra biên giới.
Những con đường mở ra, dân sinh phát triển, kinh tế phát triển theo. Những thị
tứ, thị trấn mở dọc theo những con đường. Những gia đình, những cuộc đời, những
đứa trẻ sinh ra trên những con đường ấy. Những ngôi làng, những vùng dân cư
hình thành từ đấy.
Trên con đường
chạy dọc biên giới chỗ “một tiếng gà gáy cả ba nước đều nghe” là ngã ba Ngọc Hồi,
không phải ngay ngã ba ấy, mà chạy thêm mấy chục cây số nữa, giữa một làng Sê
Đăng, tôi gặp một cô gái người Quảng Bình. Cô gái tên là Thủy. Câu đầu tiên Thủy
nói, cháu biết chú, và hay đọc chú. Ôi giời, ngạc nhiên hết sức. Nhưng khi nghe
giải thích là cháu học khoa Văn Đại học Tổng hợp Huế thì tôi không ngạc nhiên nữa.
Tôi khóa 1, có viết lách, các khóa sau biết tôi thì cũng không lạ lắm. Nhưng lạ
là sao cô bé lại xuất hiện ở đây, và tôi, mang danh là khá hiểu về Tây Nguyên
đã hoàn toàn phải tâm phục khẩu phục khi cô bé nói về cái làng Sê Đăng mà cô
đang sống. Cô rất am hiểu họ, biết vanh vách từng người, nói về từng nhà như
nói gia đình mình. Hỏi muốn về quê thì thế nào, bảo hoặc nhảy 2 chặng xe xuống
Pleiku mua vé về Quảng Bình, hoặc ra ngã ba Ngọc Hồi vẫy xe ra Bắc theo đường Hồ
Chí Minh. Cách thứ nhất xa và nhiêu khê nhưng chắc chắn hơn. Cách thứ 2 có khi
phải đứng hoặc ngồi ghế súp cả ngày. Cô là cán bộ dân vận của công ty 732, công
ty cao su trực thuộc binh đoàn 15.
Có một đoàn hai
chục người nguyên là cựu sinh viên ngữ văn K18 Đại học Tổng hợp Hà Nội vừa họp
lớp tại… Tây Nguyên. Tôi được họ mời đi cùng, chủ yếu là để giúp họ hiểu về Tây
Nguyên. Tôi có giải thích cho họ cái sự khác nhau giữa hai đô thị Tây Nguyên
cách nhau 48 cây số là Pleiku và Kon Tum. Từ đồng bằng lên theo đường từ Quy Nhơn
hoặc Tuy Hòa thì Pleiku đều gần hơn, nhưng các nhà truyền đạo người Pháp đã bỏ
qua Pleiku, lên thẳng Kon Tum. Kon Tum là đô thị đầu tiên của miền bắc Tây
Nguyên này. Pleiku thời ấy là môt quận của Kon Tum. Và vì thế, kiến trúc của
thành phố Kon Tum mang dấu ấn Pháp rất rõ. Nó thanh bình và trữ tình, mềm mại
duyên dáng và thấp thoảng sự bí ẩn. Nó là thành phố của tao nhã và bền vững,
khác với Pleiku là thành phố của chiến tranh và phục vụ chiến tranh. Năm 1975,
Pleiku toàn nhà tôn với rão kẽm gai, khu gia binh và những con đường lở lói.
Trên trục ấy, đi lên phía bắc, có một con đường nữa, con đường của tù nhân. Ngục
Kon Tum đã nổi tiếng, ngục Đăk Lây còn nổi tiếng hơn. Giờ thi thoảng tôi lái xe
về Huế, từ Pleiku lên đến Đăk Lây là nửa ngày, còn trước đó, đi xe đò có khi phải
2 ngày mới tới nơi. Thế mà ngày xưa, Pháp bắt các chiến sĩ cộng sản đi bộ, chân
cùm tay trói, díu vào nhau, ngày này sang tháng khác, cũng phải lên đến nơi. Mà
hồi ấy, rừng âm u, đường chưa có, cứ lần rừng mà đi, người chết nhiều hơn người
sống, lính áp tải cũng chết dọc đường nhiều. Và rồi cũng đến. Chưa kinh, chính
tại nhà tù này, ông Tố Hữu đã vượt ngục. Một mình, rừng xanh núi đỏ, âm u bạt
ngàn, tiếng tăm không biết, chỉ có đồng bào dân tộc. Thế mà ông đã vượt ngục
thành công. Chưa hết, còn được dân làng đón tiếp rất trọng thị. “Ơi làng Rô nhỏ
của tôi/ Cao cao ngọn núi chiếc nôi đại bàng” là ngôi làng đã chứa chấp Tố Hữu
khi ông vượt ngục Đăk Lây, sau đó dò dẫm một mình trong rừng, tới làng Rô, rồi
lại âm thầm băng rừng đi tiếp…
Sẽ đến lúc nào đấy,
khoảng cách tính bằng cái chớp mắt, còn bây giờ, vẫn một Tây Nguyên dặm dài, cả
bí ẩn nữa, ít nhất là với những người chưa xách ba lô
lên, và đi…
2 nhận xét:
Em đọc mươi blog đáng đọc thì blog của bác vẫn đáng đọc nhất trong số đó. Có điều để dành khoảng tháng rồi đọc ngấu nghiến luôn mấy bài một lúc.
@TNC, cám ơn bạn đã yêu mến, hì hì
Đăng nhận xét