Bao giờ cũng thế, chia tay bạn bè
xong thì trở về… trống rỗng. Lạ thế. Mưa và lạnh. Gió cứ hun hút. Tết hồi ấy
cũng rất nghèo. Nhà tôi có phiếu phân phối lương thực thực phẩm, và cả chất đốt
nữa, tết xếp hàng mua thịt nếp đậu các loại. Chiều ba mươi là vui nhất vì các cô,
dượng em ba tôi, cháu chắt các loại xúm
về nhà cậu, tưng bừng. Nhưng cũng chỉ buổi chiều ấy, nhà tôi còn lại 4 người,
ba mẹ và 2 anh em tôi, tết lừ lừ trôi qua…
------------
Nhỏ
tí, tôi gắn với mùa xuân xứ Bắc. Sinh và sống ở Thanh Hóa nhưng suốt tuổi thơ ấn
tượng với tôi là những cái tết ở Ninh Bình, quê ngoại tôi. Thường thì mùng 2 tết
anh em tôi cùng mẹ ra ga về Ninh Bình ăn tết. Lạnh tê tái. Mưa dầm lép nhép. Những
chuyến tàu chợ lê thê vắng ngắt vì tết. Thường thì tôi được giao ôm một bọc ni
lông xộp xoạp, cái miếng ni lông để quàng đi mưa mà bây giờ đã hoàn toàn vắng
bóng. Trong ấy là… chè xanh xứ Thanh. Quà tết của mẹ tôi đấy.
Về
đấy thì tôi không có bạn chơi đáo chơi bi và cả bắn súng. Cậu tôi đẻ nguyên năm
đứa con gái, vậy nên cái mà tôi mang về để khoe với chúng là khẩu súng bắn diêm
tôi tự làm lấy. Hồi ấy mẹ tôi là phó giám đốc nhà máy Diêm Thanh Hóa nên chúng
tôi có rất nhiều thuốc diêm phế thải. Lấy cái
van xe đạp cột vào khẩu súng lục gỗ tự đẽo, kiếm cái nan hoa hoặc cái
đinh làm kim hỏa, chế ra cái cò để bóp phát thì cái kim hỏa lao vào cái van xe
đạp đã nạp đầy thuốc diêm. Tất nhiên là mẹ cấm nhưng sau có một chú kỹ thuật
can thiệp bằng cách bảo nếu chỉ nạp chừng ấy chừng ấy thuốc thì an toàn nên mẹ
lơ cho chơi. Mấy đứa em gái con cậu nhìn thấy tôi có khẩu “súng lục” nhét ở túi
quần sau thì mắt tròn mắt dẹt, phục sát đất… Nhưng đến giờ trong tôi, cái màu
xuân Ninh Bình nó cứ ngờm ngợp xanh của rau diếp, cải bắp, su hào, và vẫn nhớ,
cỗ tết thời ấy ở quê ngoại chí ít phải có 4 món: giò nem bung mọc, ngoài ra là
xu hào xào, hành hoa luộc…
Thanh
Hóa hồi ấy rất nghèo. Cán bộ công nhân nhà máy thì còn đỡ vì nhà bếp thế nào
cũng thịt lợn, bữa liên hoan cuối năm hàng trăm công nhân thường có tiết canh,
lòng và… cháo. Còn thịt để chia nhau. Mẹ tôi được các cô chú nhà bếp ưu tiên-
giờ có thể gọi là tham nhũng- ấy là được
lấy toàn bộ tiêu chuẩn thịt bằng… mỡ. Về rán lên, đổ vào chai, tóp thì cất rất
kỹ để thi thoảng lấy ra điểm xuyết vào rau muống xào, còn mỡ, chỉ được nhúng
đũa vào rồi rút ra mỗi khi sử dụng.
Bà
con nông dân thì hồ hởi chờ… tát ao. Những nhà có điều kiện thì đụng lợn. Nhưng
cũng không dễ để vác ông lợn trong chuồng ra thịt, bởi phải xin phép rất nhiêu
khê. Đụng lợn không vui bằng tát ao, bởi nó không phổ quát. Trẻ con lăm lăm
trên bờ, nghe lệnh là a la xô nhào xuống mót cá. Mà lạnh tái lạnh tê. Những
thân hình còm nhom bết bùn, răng môi lập cập, thế mà cứ đen ngòm cả ao hò hét
như vỡ trận. Cỗ tết thế nào cũng có món cá kho giềng. Đấy là món chủ lực, ngon
nhất. Những đứa trẻ con nông thôn lứa chúng tôi chỉ mong tết để được ăn cơm trắng
với cá kho, ăn kỳ no mà không phải… trông nồi…
Sau
giải phóng thì tôi theo ba mẹ về quê, ở một ngôi làng rất đẹp sau lưng là phá
trước mặt là sông, cách Huế chừng bốn chục cây số. Chỉ cách một con đèo Hải
Vân, trong khi Huế lạnh tái tê thì Đà Nẵng chang chang nắng. Tết Huế trong tôi
là mùa chia ly. Học đại học, cứ chuẩn bị tết thì những đứa ở Huế chuẩn bị tâm
thế tiễn bạn ở các tỉnh về quê. Chúng tôi liên hoan cuối năm, rồi kéo ra bến xe
ngồi suốt đêm xếp hàng mua vé cho bạn. Vé xe hồi ấy là cuộc chiến đấu ngoan cường,
khéo léo và bền bỉ. Sinh viên nghèo, không biết chiến đấu thì lấy sức trẻ mà
thi, ấy là ôm chiếu ra trải ngay trước cửa phòng vé, ngay trong cái ô bằng sắt
người ta hàn cứng thành hàng trước phòng vé để bắt buộc mọi người xếp hàng, nằm
ngồi ngổn ngang ở đấy chờ nhân viên bán vé mở cửa...
Bao
giờ cũng thế, chia tay bạn bè xong thì trở về… trống rỗng. Lạ thế. Mưa và lạnh.
Gió cứ hun hút. Tết hồi ấy cũng rất nghèo. Nhà tôi có phiếu phân phối lương thực
thực phẩm, và cả chất đốt nữa, tết xếp hàng mua thịt nếp đậu các loại. Chiều ba
mươi là vui nhất vì các cô, dượng em ba
tôi, cháu chắt các loại xúm về nhà cậu, tưng bừng. Nhưng cũng chỉ buổi chiều ấy,
nhà tôi còn lại 4 người, ba mẹ và 2 anh em tôi, tết lừ lừ trôi qua…
Có
một năm tôi ăn tết Đà Nẵng. Và lần đầu tiên tôi mới biết có một thứ tết không lạnh,
không có mưa, chan hòa nắng.
Ấy
là năm thứ 3 sinh viên, một anh bạn lớp Lý yêu một cô lớp văn của tôi, anh ta rủ,
chính xác hơn là… nhờ tôi và 1 anh bạn cùng lớp nữa vào Đà Nẵng ăn tết, kinh
phí anh này lo trọn.
Huế
lạnh quắt quay và mưa dầm dề, chiếc xe đò hiệu Rờ Nôn như con bọ hung màu vàng
ì ạch xịt khói đen vượt đèo Hải Vân, đến đỉnh thì trời ạ, mênh mang nắng và
chang chang một màu vàng Đà Nẵng. Như một khẩu lệnh ngầm, cả xe đồng loạt cởi
áo len áo khoác, khăn quàng… và cảm giác chiếc xe vừa chật ứ giờ rộng tênh.
Nhà
anh chị của anh bạn này là địa điểm chúng tôi trú chân, để từ đó sang nhà cô bạn
chơi, và được gia đình cô này tiếp đón như… người lớn vì có rượu uống. Cái cảm
giác tết mà không lạnh không mưa nó vừa thành thơi thoải mái nhưng thi thoảng lại
vẫn chạnh lòng nhớ, chạnh lòng thấy thiêu thiếu một cái gì. Cái thức ăn tết (hồi
ấy đúng nghĩa là ăn tết, cả năm sấp mặt làm chỉ để lo cho ba ngày tết) của miền
nắng nó cũng khác miền lạnh. Nó không còn sự xuýt xoa hít hà, không co ro sùm sụp,
cũng không mắt môi má hồng dựng cả lên. Nó, đơn giản là sự mảnh mai thoáng đãng
đến nhẹ nhõm, nắng nóng khiến con người gấp gáp hơn, hiện đại hơn và cũng khỏe
khoắn hơn…
Tôi
thèm khám phá cái nắng gió phương Nam biết bao, và đấy là lý do vừa ra trường
là tôi đã xung phong lên Tây Nguyên.
Anh
bạn nhà thơ Phạm Đức Long trong một đêm 30 rất buồn ở Pleiku đã làm bài thơ
“khoảng trời lá thông” có một câu mà tôi nhớ mãi “Có mùa xuân im lặng kéo qua đời”. Đi rồi mới nhớ những cái tết, những
mùa xuân Huế. Ai đó nói đúng, Huế như một cô gái đỏng đảnh, dễ thương nhưng rất
khó chịu. Nó khiến các chàng trai khi ở gần thì muốn… thoát, nhưng khi đi xa
thì da diết nhớ về. Điều ấy chứng minh bằng chi tiết, người Huế dù có đi khắp mọi
phương trời kiếm ăn, nhưng ít nhất một năm một lần, đặc biệt là tết, lũ lượt
kéo về quê. Ngày xưa là lếch nhếch xe đò tàu chợ, ba bốn ngày đường mới về đến
nhà, giờ thì máy bay, xe riêng hoặc vài ba nhà thuê một chuyến ô tô về quê, nó
khiến sự trầm mặc vốn có của Huế như bừng thức trong những ngày tết. Huế là đất
rất bảo thủ, nhưng giờ, sự bung tỏa của những người con xa quê dịp tết trở về
đã khiến Huế như vừa thay áo mới. Các phong cách văn hóa được đưa về, tất nhiên
có cả tích cực và tiêu cực, khiến tết Huế như tươi tắn hơn, rực rỡ hơn, náo động
hơn và có vẻ cũng xô bồ hơn…
Những
năm 80, 90 của thế kỷ trước, tết ở Pleiku cũng rất buồn. Phần lớn những người
ăn tết ở đấy là xa quê, cái tâm trạng vọng cố hương nó khiến con người như cứ
thiếu vắng nỗi gì, vui là vui vậy gọi là, chứ không bền chắc. Người tinh ý vẫn
nhận ra nỗi thắc thỏm, xa vắng, chênh vênh trên gương mặt từng người…
Nhưng
đấy là ở thành phố, cái thời cả nước cùng khổ. Xuống làng, mọi chuyện khác
ngay.
May
mắn là, đến giờ, dẫu vẫn gọi là ăn tết nhưng cái sự ăn đã nhường cho sự chơi.
Thời đói khổ cả đất nước tất bật lo miếng ăn, càng tết lại càng lo, hay nói
đúng nhất, ai cũng mong tết, nhưng tết lại khiến cho con người khổ nhất, lo lắng
vì nó nhất. Cả năm cứ ngong ngóng đến tết, làm được gì cũng chỉ để dành cho tết,
tết xong lại… lo tết...
…Bắt
đầu là sự báo hiệu của dã quỳ. Cứ cắm cúi làm ăn tất bật, một hôm bỗng đột ngột
đến giật mình: Dã quỳ nở. Bắt đầu loi thoi vài bông sau đến ràn rạt cả thảm. Dã
quỳ nở là bắt đầu chấm dứt mùa mưa, chuyển sang mùa khô, theo lịch người Kinh
là bắt đầu mùa tết. Tết âm lịch là chỉ của người Kinh thôi, chứ đồng bào Tây
Nguyên bản địa có một hệ thống lễ hội khác. Nó bắt đầu từ tháng 3, tháng của lễ
hội, của ăn năm uống tháng, của Ning nơng.
Nó
là một loài hoa dại, dại đến vô cùng dại, chuyên lấn chiếm đất của con người.
Thời đói kém, thấy nó lan ra là con người lại thở dài, tìm cách chặn sự ăn lan
của nó. Đến một lúc, đời sống tạm no đủ, con người bỗng ngẩn ra: ơ hay, nó đẹp
đến thế kia kia mà. Cứ ngằn ngặt vàng như thế, từng thảm nhấp nhô trong gió
trong nắng Cao nguyên. Trời xanh, mây trắng, nắng vàng, đất đỏ… và trên ấy, ngờm
ngợp dã quỳ. Giờ thì người ta bắt đầu quý dã quỳ, có thành phố Cao Nguyên đã lấy
dã quỳ là biểu tượng của thành phố, người ta còn nghiên cứu tác động làm cho dã
quỳ lùn đi để trồng trong phố, có những tour du lịch đi ngắm và chụp ảnh dã quỳ…
chứ thời đầu, khi tôi ngồi dùng chữ để tán dã quỳ, có không ít ý kiến bảo gã
này dở hơi…
Bây
giờ, muốn ngắm dã quỳ thì về làng. Nhưng cũng không phải làng nào cũng còn dã
quỳ. Xây dựng đến đâu, dã quỳ dạt đi đến đấy. Đất hoang không còn, dã quỳ cũng
hết đất sống.
Nhưng
làng không chỉ có dã quỳ.
Mùa
Ning Nơng đang được khởi động.
Hàng
trăm ghè rượu được chuẩn bị dựng san sát trên sàn, sát vách. Men thì như nhau,
đồng bào làm từ một loại lá, nhưng chất liệu thì khác. Ngon nhất là rượu được
làm từ hạt Gao, nó tương tự như hạt Kê của người Kinh. Còn phần lớn thì rượu cần
được làm từ sắn. Và tùy theo khẩu vị từng vùng mà bà con hoặc cho chuối chín
vào cho ngọt, cho ớt vào cho cay, cho lá teng neng cho đắng…
Lúa
chín tới được suốt bằng tay về để giã cốm. Ngày làm cốm cả làng cứ thơm lừng
lên, những cánh tay trần con gái đảo cốm trong bập bùng lửa như vũ nữ đang múa
khiến đầu óc có “chậm hiểu” đến mấy cũng vẫn cứ phải liên tưởng đến một cái gì
đấy vừa vời xa bí ẩn lại vừa phồn thực thân quen. Mắt người như lên men. Nam
thanh nữ tú dập dìu. Làng tươi như mười tám. Người Kinh có cúng cơm mới thì đồng
bào cũng có, nhưng nó được tổ chức lớn hơn, trở thành tết trọng của người Tây
Nguyên, tết này sau tết người Kinh chừng 1 tháng…
Cái
phần lễ ấy, già làng lo, còn phần hội là của thanh niên.
Thì
là váy áo cả năm cất trong gùi được mang ra. Thêm những phụ kiện xanh đỏ lên
trán, vào cổ tay. Có khi là một cái lông chim lên đầu chàng trai. Những bài
xoang nằm trong bụng tự thuở lọt lòng. Nhưng chiêng thì phải chuẩn bị. Mời người
lên dây chiêng, rồi trước cả tháng, là tập cho đều.
Lửa,
rượu cần, chiêng, xoang… những thành tố không thể thiếu trong một lễ hội Tây
Nguyên. Những cô gái đẹp nhất, những chàng trai ưu tú nhất, được chọn vào đội
chiêng và đội xoang. Những đôi mắt thăm thẳm, những bắp chân rạch váy khoe sự mịn
màng của sắc nâu hồi hộp, những bộ ngực mưng mở như muốn thoát ra sau lần áo
ló, và vai trần tròn lẳn ẩn hiện nhịp nhàng với bàn chân nhấp nhô trên cỏ. Cỏ
mùa xuân xanh đến biếc trời, đến ngơ ngẩn mây, nó làm nên những taman dài rộng nhìn đã muốn lăn quay ra
ngửa mặt trên thảm cỏ ấy nhìn mây bay nghe gió thổi ngắm những bông dã quỳ cuối
mùa khô xác tạo nên những hình kỷ hà rất đẹp đan trong chiều như tóc rối nhưng
không màng lược gương bởi sự tự tin không thể đảo ngược…
Tôi
đã rất nhiều lần ngợp trong những vòng xoang vòng chiêng ấy. Không phải để xem,
không phải để dự, để ngắm… mà để tan ra trong ấy. Hội lễ tự thân nó không phải
là diễn, mà nó là nhu cầu của từng người, là cách để con người hòa vào nhau,
hòa vào thiên nhiên, hòa vào cuộc đời với một tâm thế và đức tin trong trẻo,
không vụ lợi, hết mình. Bây giờ có vẻ như người ta đang làm cho các lễ hội bị
biến tướng đi, làm cho nó nhuốm màu tục lụy. Nếu lúc nào đấy, thấy có gì gợn
trong lòng, hãy về một làng Tây Nguyên, mùa ning nơng, bạn sẽ nhận được sự
trong veo, tinh khiết của sự trong veo tinh khiết bằng một niềm tin bất diệt
vào cái đẹp của cuộc sống mà vì nó con người tồn tại…
Tết
này, vì một lý do đặc biệt, tôi lại ăn tết tại thành phố Hồ Chí Minh, lại được
khám phá cái tết phương Nam. Những cú di chuyển đúng vào dịp tết vừa thú vị lại
vừa nao nao. Lại nhớ cái thời sinh viên ở thập kỷ 70 của thế kỷ trước, lớp tôi
có một đứa quê Đà Nẵng, cứ tết là ôm mấy ổ bánh mì leo lên tàu, chạy từ Bắc vào
Nam rồi ngược lại. Giao thừa, nhà tàu mời tất cả hành khách có mặt trên tàu dồn
về 1 toa đón giao thừa. Nó kể, có năm cả đoàn tàu có mỗi nó là khách lúc giao
thừa, tàu vẫn chạy xình xình, bên ngoài trời đen như mực tàu, nó rưng rưng cầm
ly rượu hương chanh nhà tàu mời mắt nhoa nhóa nước…
Gần
ra trường mới biết, nó là con liệt sĩ, nhà chả còn ai, tết về nhà chỉ thui thủi
một mình, nó đã chọn tàu khách xuyên Việt làm nơi đón tết…
VCH
6 nhận xét:
Đọc bài này của VCH, chỗ nào cũng đụng vào ký ức tuổi thơ của mình.
- Bọn mình cũng chơi súng diêm. Đẽo súng lục bằng gỗ tươi, rồi ngâm bùn cho có màu đen tự nhiên, chỉ đẽo bằng gỗ khô mới phải bôi mực Cửu Long đen. Nhưng kỳ công nhất là kiếm van xe đạp, phải van hạt gạo mới bắn được, chứ van giun thông thống không xong.
- Ngày tết, hợp tác xã mổ lợn chia cho xã viên, mỗi nhà được mấy lạng, phải lọc xương để làm nhân bánh chưng. Bánh ninh cả ngày mà xương không nhừ. Khi dùng lạt cắt bánh, kéo theo cả cục xương. Nhưng nhớ nhất là phần lòng, hộ nào cũng có miếng gan, mỏng như tờ giấy. Lại nhớ cái chuyện nghệ thuật chặt thịt gà...
- Khi trời rét tê rét tái, là người ta lội sông bắt cá cóng. Những con cá rúc xuống bùn trú rét, bị những bàn tay đan vào nhau, vục bùn bắt sống. Miệng ai cũng rà rà mặt nước, môi khua lập cập. Biết là rét thấu xương mà vẫn mò mẫm. Bởi chỉ dịp ấy, mới có cá cóng mà thôi.
- Năm nào xuống trường, mình cũng ghé qua gò Đống Đa, đúng dịp mùng Năm tết, kỷ niệm Quang Trung đại phá quân Thanh, rồi đáp tàu điện vào trường. Chúng bạn gặp lại, vui hơn tết, thi nhau kể chuyện ăn tết hoành tráng, còn mình bùi ngùi với kỷ niệm tết nghèo... nên cái chi tiết VCH kể anh bạn ăn tết trên tàu, khiến mình rất cảm thông.
Vũ Xuân Tửu
Mến bác Hùng mới cố đọc hết dài quá. Kỷ niệm của quá khứ của bác cũng như tôi một thời khốn khó Nên chăng chia ra nhiều phân đoạn Lâu lâu nhắc lại một một đoạn
Đọc văn Bác mà không nói nên lời cả một miền ký ước của một thời thơ ấu tràn về. Thanks
Một bài viết rất hay. Ôn ni viết tản văn coi bộ hay hơn mần thơ nhiều. Khen.
Cám ơn Bác, em thấy cả tuổi thơ em trong bài...!
cảm ơn Văn Công Hùng, đọc bài viết nào của bác cũng tuyệt. Chúc bác cùng gia đình một năm mới được nhiều sức khỏe, an khang và thành đạt.
Bài viết ngập tràn ký ức! Hay. Tuy nhiên có chi tiết sai nhỏ: Cá kho riềng, không phải "giềng". Mà hình như chỉ cá mè mới kho riềng. Cá khác thường kho nghệ và quả dành dành, vàng và thơm.
Đăng nhận xét