Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

ĐÔI ĐIỀU NÓI THÊM VỀ TƯỢNG MỒ



Pho tượng mồ tưởng như vô tri vô giác kia, té ra quá nhiều chuyện để nói. Trên hết nó là tài năng tuyệt vời của người nghệ nhân dân gian không tuổi không tên, nhưng bằng sự dấn thân đến tận cùng số phận, tận cùng cõi sống, anh  cho ra đời một tuyệt tác mà anh không hề biết rằng nó là tuyệt tác, bởi, pho tượng ấy, sau khi dựng quanh nhà mồ, mọi người sẽ quên ngay, tác giả của nó cũng sẽ quên ngay, coi như đã chính thức lìa xa nhau, mặc nắng mặc mưa, mặc gió mặc bão, người sống lại về với công việc hàng ngày với tất cả những bề bộn lo toan, người chết đã có bức tượng bầu bạn, cùng dìu nhau lên một cõi vô cùng khác, ở đó, lộng lẫy và trong veo, tinh khiết và công bằng, ở đó, có thể lại bắt đầu một tình yêu mới…
---------




          Ấy là một buối chiều của một năm thuộc thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

          Chúng tôi là một tốp nhà văn đi thực tế, cứ lang thang trong khu nhà mồ Jrai của một làng thuộc xã Chư Drăng, hồi ấy thuộc huyện Ayun Pa, giờ là Ia Pa. Tự lúc nào tôi tách ra khỏi đoàn, cứ một mình mê mải. Mà cái nắng quái buổi chiều cứ rờn rợn nhưng lại như mê hoặc khiến tôi cứ vạch cây ra mà vào khu nhà mồ, cứ hun hút mà vào. Hồi ấy tượng còn rất nhiều, rất đẹp. Từng pho tượng như đang phập phồng thở, như đang tâm tình, đang nói chuyện, đang ưu tư… đến khi ngẩng lên thì, còn mỗi tôi trong cái khu nhà mồ ấy. Quả thật là tôi hoảng, bươn vội vàng ra, nhưng trong đầu cũng kịp lóe lên một câu “Chiều như lửa đốt lòng nhau”.

          Về đến chỗ tập kết, mọi người ngồi chờ mỗi mình tôi. Cái ấn tượng buổi chiều với nắng rười rượi ma quái ấy, cái hoang mang khi một mình lạc trong khu nhà mồ mà như người đang sống ấy, cái ám ảnh thân phận, kiếp người, tình yêu… đeo đẳng tôi từ lâu rồi, giờ có dịp bùng lại. Chỉ nửa ngày sau tôi viết xong bài thơ Tượng Mồ, và may mắn, nó được nhiều người chấp nhận.


          Vấn đề là, trước đó, tôi đã có một thời gian dài nghiên cứu, tìm hiểu về tượng mồ và văn hóa Tây Nguyên.

          Với người Tây Nguyên, chết chưa phải là hết, mà chết là một trạng thái nghỉ, chuyển từ trạng huống sống này sang trạng huống sống khác, đấy là thế giới của A Tâu, của một tầng trời vĩnh hằng khác. Ở đó, con người luôn mơ về, dù không ai hình dung ra hình hài nó thế nào, và vì thế mà nó luôn lung linh, luôn luôn đẹp…

          Trong thời gian ấy, người sống vẫn thường xuyên ra thăm người chết trong mồ. Cái mồ ấy khi chôn người ta vẫn để hở một lỗ phía trên, và người sống mang cơm nước thức ăn ra bón cho người chết qua lỗ thông hơi ấy. Người ta còn chia của cho người chết. Trong nhà có gì đều được chia đều cho người ngoài mồ, nhưng để phân biệt thì người ta đục thủng hoặc làm hỏng đồ vật ấy đi, rồi mang ra chất xung quanh nhà mồ.

          Cho đến khi đã đủ điều kiện, cả về kinh tế và thời gian thì người ta làm một cái lễ bỏ mả (Pơ Thi).


          Các điều kiện tiên quyết để có lễ bỏ mả là: kinh tế, phải có bò gà dê lợn, ít nhất mỗi thứ một con. Có rượu, ít thôi, vì bà con dân làng sẽ mang đến…

          Nhưng cái quan trọng là nhà mồ và tượng mồ.

          Tượng mồ là những cây gỗ tươi nguyên trong rừng, được những trai tráng khỏe mạnh trong làng đi hàng tháng trời trong rừng, đốn và khiêng về.

          Còn lại là việc của nghệ nhân.

          Không phải ai cũng đẽo được tượng mồ, mà mỗi làng chỉ có vài ba người làm được việc này.

          Không phải lúc nào cũng có thể đẽo được tượng mồ. Mà phải chọn (và biết cách làm cho) cảm xúc thăng hoa nhất, nói nôm na là… Giàng nhập.

          Và, chỉ một con rựa, một cái rìu, người nghệ nhân tài hoa ấy “Đẽo đi những phần thừa” để còn lại là một pho tượng mồ sống động, cô đọng tinh hoa của con người. Chưa hết, chưa đủ, không chỉ tinh hoa, mà nó là cảm xúc, là toàn bộ tình yêu của người sống đối với người đã mất.

          Tôi đã khai thác yếu tố này trong bài thơ.

          Rằng là, xác rồi thì đã tan rữa, đã hòa trong đất.

          Hồn thì rong chơi đâu đó trên cõi đời rộng lớn và mông lung này.


          Nhưng cái còn lại là tình yêu của con người. Mãi mãi, còn lại tình yêu trên cõi đời này. Tất cả mọi thứ rồi sẽ mất đi, kể cả những thứ tưởng như vĩnh hằng nhất, như Thái Sơn, như vườn treo Babilon, như tháp Ephel, như Vạn Lý trường thành… nhưng tình yêu thì không thế, nó mãi mãi thổn thức cùng con người, song hành cùng con người, kể cả khi con người đã mất đi, thì tình yêu vẫn còn ở lại.

          Tượng mồ của người Tây Nguyên mang thông điệp ấy.

          Nó là khát vọng tình yêu của con người, là cái còn lại cuối cùng của con người, gửi cho con người, gửi cho chúng ta.

          Tuy thế, tình yêu ấy nó cũng mong manh lắm. Và thế nó mới quý, chứ nó cứ sừng sững như Chô Mô Lung Ma thì rồi nó sẽ vô cảm mất. Vậy nên mới “Tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người”. Câu hỏi không hồi đáp, nhưng bản thân nó là câu trả lời, hoặc không cần trả lời người ta vẫn hiểu, bởi ở đây là cái vô hình vô lượng vô ảnh vô thanh vô khứ vô tại, nhưng tràn đầy cảm xúc, dâng đầy năng lượng yêu và nó hiện hữu...

          Khi viết câu “Nỗi đau khóc chẳng thành lời/ lặn vào thớ gỗ ru người/ người ơi” thì tôi nhớ tới câu chuyện của ông họa sĩ Xu Man kể cho tôi. Ông Xu Man bảo khi người thân mất, người Tây Nguyên ít khóc than, mà họ dùng những cách bày tỏ sự tiếc thương ấy rất ấn tượng và… bạo lực. Ấy là lấy dao cứa vào da thịt, là lấy thanh củi đang cháy dí vào ngực vào đùi- ngực và đùi ông Xu Man chằng chịt sẹo là thế- và cao hơn, họ dồn tình yêu ấy vào tượng mồ…


          Thôi thì, không cùng đi với nhau một con đường, không chung nhau cái rẫy, không với nhau cái sàn nhà, không có nhau những cơn ấm lạnh cuộc đời… thì đành ai nấy đi. Nhưng trước khi mãi mãi quên nhau, mãi mãi mỗi người một phía, mỗi người một miền mặt trăng mặt trời, một giấc mơ riêng, một hơi thở riêng… ta làm cái tượng mồ, để nó thay ta, mang theo tình yêu của ta, đi cùng mình, mãi mãi… Hoang sơ chiều rót tràn vai/ ché và chiêng và đầy vơi rượu cần… Nỗi lòng ta đấy, nó lặn vào cõi này: Đứng đây tượng hát một ngàn lời yêu, để rồi tác giả cũng hòa vào: Chiều ơi chiều chiều ơi chiều/ cho tôi cùng hát tình yêu một đời

          Tôi chỉ làm một việc là ghi lại hiểu biết của mình về tượng mồ, về tình yêu của người Tây Nguyên nó riêng, con người nói chung, trong một bài thơ lục bát. Mà ngay cái thể lục bát, là cũng tự nó xuất hiện ngay từ câu sáu đầu tiên, chứ tôi hoàn toàn không định từ trước là sẽ làm thơ kiểu gì, thể gì, mà đơn giản, là nó tự đến, tự sắp xếp với nhau theo một trật tự trên sáu dưới tám.

          Tất nhiên, nói cho công bằng, tôi đã làm bài thơ Tượng mồ trong cái khoảnh khắc hiếm hoi của cái buổi chiều rực rỡ và ám ảnh của cái làng Jrai ở Ia Drăng ấy cộng với mươi năm tôi đã sống và học hỏi, nghiên cứu về văn hóa Tây Nguyên. Khoảnh khắc và hàng chục năm song hành là thế. Đấy cũng là quy luật tự nhiên của người sáng tác vậy…


          Cũng nói cho công bằng, bây giờ một anh sinh viên điêu khắc, thậm chí là một ông thợ mộc, cũng có thể, trong vòng vài tiếng đồng hồ, có thể đẽo ngon ơ một cái tượng mồ, y như thế, giống như hệt cái tượng mồ dựng trong khu nhà mồ kia. Nhưng nó vẫn không phải là tượng mồ.

          Bởi nó thiếu cái cảm xúc tình yêu, cái cảm giác thăng hoa tận cùng, cái đớn đau tận cùng, cô đơn tột cùng, mất mát tận cùng… những thứ làm nên hồn cốt một pho tượng mồ.

          Cũng như tình yêu vậy. Con người hơn con gà là bởi chính cái phần tình yêu ấy, chứ còn thì nó cũng truyền giống, cũng sinh con đẻ cái, nhưng gà quyết không thể là người.

          Thì nghệ thuật, tận cùng nó, cũng là đánh thức tình yêu, hướng về tình yêu, khát khao tình yêu, và bởi vì yêu nên thấm cái nỗi cô đơn tận cùng, cái đớn đau tận cùng, cái hạnh phúc tận cùng… để rồi nó rưng rưng tươi mởn cho ra tác phẩm.

          Và đấy chính là yếu tố khác nhau giữa cái tượng mồ Tây Nguyên với cái tượng mồ do các anh thợ khác đẽo, dù tượng của thợ có thể sắc sảo hơn, tinh tế hơn, đẹp hơn…

          Nhưng nó vô hồn.

          Và bởi vô hồn nên nó không chạm vào miền sâu kín nhất của con người, bắt con người phải đau đớn, khổ sở, phải vật vã sống đi chết lại.

          Thơ cũng vậy thôi, khi chạm được vào cái miền mong manh nhạy cảm nhất của con người, cái miền lẩn khuất đâu đó vì miếng cơm manh áo, đến lúc được đánh thức bởi một thứ ánh sáng khác, nó cảm thông chia sẻ, nó đỡ nâng san dìu, là lúc thơ có ích.

          Dù có ích như một đóa phù dung, sáng nở tối tàn. Nhưng nghĩ cho cùng, cái vĩnh hằng nhất là tâm hồn người. Nếu đúng tần số, thơ sẽ nằm ở đấy, đau nhức và rung cảm, khiến con người phải luôn tự vấn, tự soi mình, để mà rồi, hướng thiện, hướng mỹ.

          Pho tượng mồ tưởng như vô tri vô giác kia, té ra quá nhiều chuyện để nói. Trên hết nó là tài năng tuyệt vời của người nghệ nhân dân gian không tuổi không tên, nhưng bằng sự dấn thân đến tận cùng số phận, tận cùng cõi sống, anh  cho ra đời một tuyệt tác mà anh không hề biết rằng nó là tuyệt tác, bởi, pho tượng ấy, sau khi dựng quanh nhà mồ, mọi người sẽ quên ngay, tác giả của nó cũng sẽ quên ngay, coi như đã chính thức lìa xa nhau, mặc nắng mặc mưa, mặc gió mặc bão, người sống lại về với công việc hàng ngày với tất cả những bề bộn lo toan, người chết đã có bức tượng bầu bạn, cùng dìu nhau lên một cõi vô cùng khác, ở đó, lộng lẫy và trong veo, tinh khiết và công bằng, ở đó, có thể lại bắt đầu một tình yêu mới…


          Thì biết làm sao được, tình yêu mà, ai cấm nó cứ mãi thổn thức cho con người, vì con người, dù có thể, họ đã xa chúng ta mãi mãi, cả về thời gian và không gian.

          Tôi đã viết về Tượng mồ như thế. Và hình như nó không chỉ là tượng mồ bạn ạ.


          Và tôi cũng gõ những dòng này trên chuyến tàu Hải Quân ra Trường Sa. Tranh thủ những lúc bình yên trên đại dương bao la, tôi gõ bằng tất cả niềm tin yêu và kính trọng vào tình yêu của con người…

Nguyên văn bài thơ:



chiều như lửa đốt lòng nhau

tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người



đã đành hồn đã rong chơi

đã đành xác sẽ tơi bời gió sương

mà còn đây nỗi vấn vương

mà còn đây nhớ với thương một đời



nỗi đau khóc chẳng thành lời

lặn vào thớ gỗ ru người người ơi



hoang sơ chiều rót tràn vai

ché và chiêng và đầy vơi rượu cần



nằm đây một nắm xương tàn

đứng đây tượng hát một ngàn lời yêu



chiều ơi chiều chiều ơi chiều

cho tôi cùng hát tình yêu một đời…


               Biển đông 03/5/2013- phòng IIE34, tàu HQ 996.
                                                          VĂN CÔNG HÙNG
------
Bài này tôi viết cho một cuốn sách của một trường Cao Đẳng cung cấp thêm thông tin cho sinh viên khi trong chương trình sách giáo khoa phần địa phương có dạy bài Tượng Mồ của tôi.
 

1 nhận xét:

Nặc danh nói...

Đọc bài thơ cháu thấy có ma chú à. Nó ghe rờn rợn.