Tôi nhớ hồi nhỏ có đọc đâu đấy một cái truyện rằng, xưa kia Việt Nam chỉ có một dân tộc. Nó là một nhà gồm bố mẹ và những đứa con, ở trong một ngôi nhà thuần Việt. Nhà thuần Việt là nhà gỗ mít 3 gian 2 chái, cửa tuồng, nền đất thịt, lợp tranh. Xung quanh có ao có vườn có sân. Cái nền nhà ấy lũ trẻ con ăn trám xong, lấy cái hạt chặt đôi ra khều lấy nhân ăn, ngon vô cùng, còn 2 nửa hạt quả trám thì đóng xuống nền nhà. Vừa đẹp vừa chắc chắn. Lâu dần, sinh con đẻ cái, lứa này tiếp lứa kia, nhà chật, phải nới ra. Nới chiều rộng rồi nới chiều cao. Cứ mỗi lứa con lại nối cái nhà cao thêm một ít, lâu dần cái nhà cao mãi, cao mãi, người ở dưới nói người ở trên nóc không nghe được nữa. Cái nhà ấy gọi là nhà rông, và những người ở phía trên ấy là những tộc người Trường Sơn Tây Nguyên bây giờ, còn người ở dưới đất là người Việt mà lâu nay ta hay gọi sai là người Kinh.
Tôi không nhớ đấy là truyện sáng tác hay là chuyện cổ tích, trẻ con đâu phân biệt được loại gì ra loại gì, nhưng nhớ đã đọc nó. Và rồi nhớ.
Rồi ra
trường, đi làm ở cái xứ có nhiều nhà rông.
Ban đầu chả
biết đầu cua tai ếch gì, nhưng mà cứ xuống làng là ngủ ở nhà rông,
chỉ khác dân làng là họ nằm ngay sàn, bên bếp lửa, mình mắc võng.
Họ ngủ họ thức họ trằn trọc còn mình nằm... ngắm và nghĩ về họ. Nhìn
lên cái nóc nhà rông cao vời vợi mà hãi, mà nghĩ sao họ lại giỏi
thế, làm cái nhà rông trong hoàn cảnh cả đời chưa ra khỏi làng, dụng
cụ rất thô sơ, mà chắc chắn mà vững bền mà đẹp mà hợp lý, tới
mức các nhà khoa học kiến trúc và xây dựng sau này phải công nhận
nó đạt tỉ lệ vàng trong xây dựng. Và từ đấy mà rồi, dẫu hết sức
lơ mơ nhưng tôi cũng đã viết hàng trăm bài báo về nhà rông, tới mức
một ông kiến trúc sư, nguyên giám đốc sở xây dựng một tỉnh ở Tây
Nguyên phải nói, tất nhiên là đùa: Những bài viết về Nhà Rông của
ông Hùng có thể làm thành một luận văn... tiến sĩ.
Nhà rông,
về công năng và ý nghĩ, nôm na thì nó na ná như cái đình của người
Việt ở đồng bằng, nhất là đồng bằng Bắc Bộ. Nó là nơi dân làng tụ
họp mỗi khi làng có việc. Là nơi cúng Yang, cúng trời đất. Là trung
tâm của cộng đồng. Là nơi các vị thần trú ngụ, cả ở mái (nóc) nhà
rông và cây nêu dưới sân. Là chỗ thanh niên trai tráng chưa vợ lên ngủ
hàng đêm, để giữ làng, để sinh hoạt cộng đồng, nơi già làng xử phạt
theo luật tục vân vân...
Cái khác
đầu tiên là như thế này. Đình làng Việt là nó do những hiệp thợ
chuyên nghiệp làm. Người Việt có những tỉnh rất giỏi nghề mộc. Mộc
có nhiều loại, đóng giường tủ bàn ghế là một dạng, làm các loại
tượng gỗ là một dạng, đóng cối xay cũng là một dạng. Làm đình thì
thuộc loại thợ thượng thặng, là thợ của các loại thợ. Những hiệp
thợ như thế không phải tỉnh nào cũng có. Và vì thế, có những ngôi
đình, chỉ nhắc đến tên là hầu như ai ai cũng biết, ví dụ như đình
Bảng, đình Mông Phụ, đình Chàng, đình Chèm, đình So, đình Tân Đông vân
vân. Chuyện về những ngôi đình này thì hết sức thú vị và dài tập,
tôi không phải chuyên gia, nhưng biết có những họa sĩ, những nhà nghiên
cứu, nghệ sĩ nhiếp ảnh... cả đời chỉ chuyên tâm nghiên cứu về đình
làng Việt, và chưa bao giờ hết mới, dù các ngôi đình thì đã rất cũ
và thành cổ vật...
Còn nhà
rông. Người Tây Nguyên chưa bao giờ có thợ chuyên nghiệp. Từ làm nhà
tới đẽo tượng, từ làm rượu tới dệt vải... tất cả họ đều là
nghiệp dư, khi cần thì làm, làm xong lại chơi chứ không như các hiệp
thợ người Việt lại được mời đi làm tiếp, đi khắp nơi, có những hiệp
thợ đi khắp nước, cuối năm giáp tết mới về, chưa xong nơi này đã có
nơi khác tới đón, cơm gà cá gỡ, sướng như... thợ mộc...
Tất nhiên
trong mỗi làng Tây Nguyên (có chừng 50 nóc nhà là nhiều) thì lại có
những người khéo tay. Họ tài là thế này: Chưa bao giờ, hoặc rất ít,
ra khỏi làng. Mù chữ, tất nhiên, nên không biết lịch sử kiến trúc
cũng như các trường phái nó ra làm sao. Rất ít khi được làm cái
việc mà họ sắp phải làm (làm nhà rông, đẽo tượng, chỉnh chiêng vân
vân). Thêm nữa, dụng cụ họ rất ít. Hầu như chỉ có cái rìu và con
rựa là dấu ấn của văn minh, còn lại toàn bộ là từ rừng. Không xi
măng gạch đá, không sắt thép vôi vữa, không ốc vít bù loong...
Các ông thợ mộc
dưới xuôi khi được phong thợ cả là họ đã rất chuyên nghiệp, trải qua thực tiễn
rất nhiều, còn nghệ nhân nhà rông, có khi cả đời họ chỉ được làm một cái. Thế
mà nói theo ngôn ngữ của các kỹ sư xây dựng, các kiến trúc sư được học hành bài
bản bây giờ, các ngôi nhà rông được làm xét về yếu tố kỹ thuật, chuẩn không cần
chỉnh. Nhà rông thường là được làm ở nơi cao nhất của làng, nơi gió Tây Nguyên
thổi mạnh nhất, thường xuyên lồng lộng, thế mà không có các vật dụng hiện đại
như sắt thép đinh bù loong... phương tiện chỉ là dao rựa và rìu, ngôi nhà rông
với gỗ và tranh tồn tại ngạo nghễ như chiếc rìu lộn ngược giữa trời xanh bất chấp
nắng mưa gió bão. Các kỹ sư xây dựng còn tính rằng các tỉ lệ của nhà rông rất
chuẩn chứ nếu không chả cần gió bão nó cũng sẽ tự sập vì chính trọng lượng của
nó. Thế mà chỉ một tay nghệ nhân mù chữ, cả đời chưa bước qua giọt nước làng,
toàn ước lượng bằng mắt và bằng một lời dẫn nào đó từ một cõi nào đó (là tôi
đã nghe một ông già làng nói thế nhưng chắc gì đã đúng dưới
"ánh sáng khoa học" của chúng ta) chứ như đã nói, họ làm gì có
kinh nghiệm, ngôi nhà rông cao vút trở thành biểu tượng của sức mạnh Tây Nguyên
và là biểu trưng của văn hóa Tây Nguyên. Sau này chúng ta ồ ạt đưa các nhà rông
văn hóa tôn bê tông xi măng vào thay thế, vừa làm hỏng toàn bộ bản sắc của ngôi
làng Tây Nguyên, làm biến mất sự hài hòa, vừa làm lụt tay nghề của các nghệ
nhân. Bởi như đã nói, nghệ nhân làm nhà rông rất hiếm, theo quan niệm, đấy phải
là những người được Yang tin tưởng, ban cho bí quyết. Bây giờ đưa mấy ông thợ
xây hạng bét vào xây nhà rông văn hóa đồng loạt, sơn xanh đỏ tím vàng chả cần tỉ
lệ kích thước, chả cần màu sắc tâm linh, yếu tố bí ẩn mất đi, nhà rông ấy phơi
ra dưới nắng chả có ai lên, và nó tự hỏng. Tôi sẽ trở lại việc này vào
các kỳ sau.
Cũng
chả phải tự nhiên mà trên nóc các nhà rông lại có các biểu tượng rau dớn, mặt
trăng mặt trời... nó có lý của nó cả. Rồi trong nhà rông có gói vật thiêng, có
cái thiêng liêng mà con người chỉ được công nhận chứ không thắc mắc, không giải
thích. Nhà rông vì thế nó vừa gần gũi nhưng lại vừa thiêng liêng. Tưởng chừng
ai lên cũng được nhưng té ra không phải, nó có luật lệ của nó dù nó là nhà
chung của làng. Và cũng bởi vì thế nên khi có việc làng người ta toàn cúng ở
cây nêu trước sân nhà rông. Bởi cây nêu và cái nóc nhà rông kia chính là nơi
"trung chuyển" giữa thế giới thần và người, mất đi yếu tố ấy nhà rông
chỉ còn là cái xác không hồn.
(Còn nữa)
Tạp chí du lịch HCM, link Gốc ở đây
Nhà rông của người Jẻ TriêngNhà rông Bahnar
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét