Thứ Năm, 18 tháng 3, 2021

NGƯỜI Ở LẠI VỚI TÂY NGUYÊN

           Đang yên lành một buổi chiều đung đưa sướng với cái tin facebook của mình được nhận tích xanh, thì Trương Đức Minh Tứ, nhà báo, TBT báo Quảng Trị, gửi cho đường link. Ôi giời, nó viết về mình. Gần bảy ngàn chữ. Tài thật. Bảo nó sao không gửi báo VN phát cho oách, nó bảo em gửi Văn chương Việt quen rồi. Ừ để anh đọc kỹ rồi đưa về web anh.

          Đọc kỹ thì thấy tay này hết sức chịu khó. Nó đọc tất cả những gì mình viết và những gì bạn bè viết về mình, xâu chuỗi lại, cốp pết lại, thành cái chân dung mình, từ những gì mình viết, như thật, hihi. Và đọc cứ thun thút, tới đâu gặp mình tới đấy, như lạ, như lần đầu.

          Cái tình bạn bè nó thế. Chịu đọc nhau, nghe nhau xem nhau để ý tới nhau bây giờ rất hiếm, nên có đứa nó đọc mình kỹ, nghiên cứu mình kỹ, dựng lại mình để chính mình đọc cũng cứ sửng sốt cứ ngạc nhiên cứ như là... giờ mới biết, hihi, nó đã.

          Nó nhắn kèm cái link thế này: "Ngồi buồn không biết làm gì đành chuẩn bị bản thảo cho tập sách mới; có viết mấy dòng về VCH để đăng trong tập ký chân dung xuất bản trong năm nay để tạ lỗi lâu nay hay “nói xấu” VCH trên mạng.".

--------------

 

Những năm 90 của thế kỷ XX, lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế muốn tìm nhân sự làm Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương - một tạp chí văn nghệ nổi tiếng thời ấy, sau khi tổng biên tập cũ nghỉ hưu. Lúc bấy giờ nhà thơ Văn Công Hùng là người hội đủ tiêu chuẩn, nằm trong “tầm ngắm” của tổ chức, vì anh người gốc Thừa Thiên Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đang làm lãnh đạo Hội Văn nghệ và Tạp chí Văn nghệ ở Gia Lai - Kon Tum. Nhưng càng gần đến thời điểm chuyển công tác thì anh em bạn bè văn nghệ ở Tây Nguyên đến nhà tâm sự, níu kéo, lại thêm bao năm tháng gắn bó với mảnh đất này đã làm cho anh thối chí. Cuối cùng anh phải rất vất vả từ chối tấm thịnh tình của lãnh đạo từ quê nhà để ở lại với phố núi Pleiku, nơi đã gắn bó như là một định mệnh của đời anh.

 

Những con đường gắn với văn chương

 

Trong số bạn hữu thời sống và viết ở Tây Nguyên, tôi có nhiều duyên nợ với Văn Công Hùng. Anh học khoa Ngữ Văn, khóa 1 - khóa đầu tiên của Trường Đại học Tổng Huế, còn tôi học khóa 7. Khi anh lên Tây Nguyên công tác, tôi còn đang học phổ thông và sau đó mấy năm mới được làm đồng môn của anh. Rồi không biết cơ duyên thế nào sau đó ít lâu tôi cũng lên Gia Lai - Kon Tum công tác. Sau này, trong những trang viết của mình, Văn Công Hùng luôn nhớ về mùa hè năm 1981, sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Huế, anh tình nguyện lên Gia Lai- Kon Tum công tác, dù hồi đó tốt nghiệp đại học người ta phân công công tác cho sinh viên theo nguyện vọng. Lý do để anh chọn Tây Nguyên cũng hết sức đơn giản, anh chơi trong hội “Bốn thằng” và cả hội muốn mãi mãi chơi với nhau, khi ra trường đi một nơi đủ xa để khám phá và còn có điều kiện trở về thăm Huế.Nhưng cuối cùng thì chỉ mỗi anh đeo ba lô lên Gia Lai - Kon Tum, còn các bạn khác thì ở lại với phố thị đồng bằng.

Trong hồi ức của Văn Công Hùng, cái buổi chiều cuối tháng Mười nơi phố núi Pleiku là mùa khô, lạnh và bụi bay mù mịt. Có thể nói Pleiku đẹp đến nao lòng nhưng cũng buồn thăm thẳm. Từ hôm mới lên, chiều nào anh cũng đi bộ trên ba con đường đẹp nhất thị xã (lúc đó Pleiku còn là thị xã) tạo thành tam giác: Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung. Đường Lê Lợi thấp hẳn một bậc so với đường Trần Hưng Đạo, có rất nhiều cây thông cổ thụ. Anh có cảm giác như người khách lạ nơi phố núi: “Phố núi cao, phố núi đầy sương / Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn /Anh khách lạ đi lên đi xuống/ May mà có em đời còn dễ thuơng… Phố núi cao phố núi trời gần/ Phố xá không xa nên phố tình thân/ Đi dăm phút đã về chốn cũ/ Một buổi chiều nao lòng thấy bâng khuâng” (Còn chút gì để nhớ - thơ Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc). Hồi ấy người dân Pleiku còn nghèo, chủ yếu bà con đi làm rẫy với cái xe đạp cũ kỹ chở đầy dao, cuốc, bao bố… trông họ lam lũ, đi làm về người bám đầy đất ba dan. Mà đâu chỉ thường dân, cán bộ, công chức thời ấy cũng luộm thuộm, dép lê, áo bỏ ngoài quần và suốt ngày nói chuyện ăn vì… đói. Phở là thứ xa xỉ chỉ đợi đến chủ nhật mới dám đi cải thiện một tô. Mà muốn có phở ăn thì trước đó, thứ Sáu hoặc thứ  Bảy, anh cầm sổ y bạ sang bệnh viện ở đường Trần Hưng Đạo khám. Học người ta, anh cứ khai đại một bệnh gì đó và bao giờ cũng được cấp 20 viên Tetracilin, 20 viên Xuyên tâm liên (một loại thuốc nam dược được xem là chữa bách bệnh). Xuyên Tâm liên thì anh vứt ngay, còn Tetracilin thì anh đưa thẳng lên chợ, nó sẽ “biến” thành tô phở và ly cà phê Kim Liên ở đường Hùng Vương sáng Chủ nhật.

Hồi mới xa Huế, Văn Công Hùng luôn ám ảnh về Huế dù đã vời vợi xa. Và trong một lần đi trên con đường Trần Hưng Đạo rợp bóng cây cổ thụ, anh bắt gặp một cô gái mặc áo dài trắng bay phơ phất trong chiều. Anh lặng lẽ đi theo suốt con đường Trần Hưng Đạo, qua đường Quang Trung thì “áo dài” vào nhà thờ Thăng Thiên. Thì ra “áo dài” đi lễ nhà thờ. Mái tóc kẹp buông nửa lưng, đôi mắt buồn, dáng người thanh mảnh, bước đi khoan thai khiến anh như … chết đứng. Ngay lập tức một câu thơ bật ra “Tà áo trắng vương trong chiều cao nguyên”.Và tối hôm ấy, dưới ánh ngọn đèn tròn chập chờn thiếu công suất, Văn Công Hùng làm xong bài “Gặp Huế trên cao nguyên”:

“Tà áo trắng vương trong chiều cao nguyên

tiếng "dạ" láy trầm như cồng. Ngực thở

con dốc đổ cồn cào nỗi nhớ

dáng Huế trong em. Phố núi sau mưa

Anh gặp em chiều phố núi bình yên

gặp lại mình hai mươi năm về trước

cho anh làm mùa hè rạo rực

áo trắng bay. Phượng nở. Trời chiều...”

          Bài thơ này của Văn Công Hùng đã có đời sống mấy chục năm rồi. Hồi ấy nhiều người thuộc và chép vào sổ tay. “Một bác sĩ có vợ là giáo viên người Huế kể chính anh là người chép bài thơ cho vợ. Nhạc sĩ Lô Thanh, giảng viên Trường Quốc gia âm nhạc Huế đã phổ nhạc bài này, về Huế thấy có người hát, nhưng phương tiện phổ biến hồi ấy nó chưa được như bây giờ nên ít người biết, rồi giờ nó cũng chìm nổi ở đâu đấy”, Văn Công Hùng kể.

 

Bây giờ, không còn đi xe đạp hay xe máy như thời nào, Văn Công Hùng đã là một tay lái ô tô cừ khôi, có thể một mình một xe rong ruổi ra Bắc, vào Nam, lên miền núi, xuống đồng bằng. Và đi trên những con đường ấy anh phát hiện ra nhiều điều thú vị. Từ Pleiku, theo đường 14 xuôi Nam tới thị trấn Chư Sê sẽ có một nhánh rẽ xuống Tuy Hòa. Đấy là đường 25, nhưng một thời nó mang tên đường 7, một con đường nổi tiếng năm 1975, là con đường mà toàn bộ binh lính Việt Nam cộng hòa ở Kon Tum, Pleiku, cả Đắk Lắk đã tháo chạy tán loạn trong chiến cuộc 1975, và Quân đoàn 3 Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chặn đánh. Bi kịch của cuộc triệt thoái và trận đánh kinh hoàng ấy nay vẫn còn dư âm. Đấy là những đứa con của những gia đình di tản bị lạc trong những ngôi làng người Jrai ven đường 7, giờ vẫn còn những gia đình đi tìm con, mà chương trình "Như không hề có cuộc chia ly" của nhà báo Thu Uyên còn giữ rất nhiều hồ sơ. 

Con đường 7 và trận chặn đường lịch sử này từng có hai cuốn sách nổi tiếng của hai người lính.Cuốn thứ nhất là "Cuộc tháo chạy tán loạn" của một viên tình báo Mỹ, tên là Frank Sneep. Và cuốn thứ hai "Trong cơn gió lốc" của một sĩ quan Quân đoàn 3, nhà văn Khuất Quang Thụy. Bây giờ thì con đường 7 kinh hoàng ngày xưa được gọi tên mới là đường 25, nó bắt đầu từ ngã ba Mỹ Thạch, thị trấn Chư Sê rẽ đường 14, xuôi qua Phú Thiện, Phú Bổn (Ayun Pa), Krông Pa, xuống Củng Sơn, Sơn Hòa rồi nhập vào đồng bằng Tuy Hòa. Đấy là con đường êm ả, rợp bóng cây, chủ yếu là cao su, cà phê, miên man ngút mắt màu xanhcủa cây lúa và miên man gió. Con đường phẳng lỳ rợp nắng chạy giữa mênh mông cánh đồng Ayun hạ với hàng ngàn héc ta lúa nước, một kỳ tích của công trình thủy lợi Ayun hạ khi nó biến cả một vùng cao nguyên khô khát thành đồng bằng trù phú.

 

Văn Công Hùng kể hồi nhà văn Thế Vũ còn làm Thư ký tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Nha Trang, trong một lần anh đưa ông từ Pleiku lên Kon Tum, qua cái nơi giáp ranh giữa hai tỉnh, đột nhiên ông bảo: “Nơi này ngày xưa mình đã từng ở”. Anh đã hết sức ngạc nhiên, hỏi lại thì ông kể rằng hồi ấy ông là lính "Lao công đào binh" bị điều lên đây.Và thời gian ở đây ông đã viết "Ngày mới đến Pleiku". Trong số các nhà văn mà Văn Công Hùng quen ở miền Trung - Tây Nguyên có hai ông nhà văn từng là “Lao công đào binh”, đó là ông Thế Vũ và ông Nguyễn Hoàng Thu. Ông Thế Vũ đã mất khi đang là Phó Tổng thư ký tòa soạn báo Thanh Niên; có thể những di chứng chiến tranh với thân phận là người dưới đáy của cuộc chiến ấy đã quật đổ ông. Ông Nguyễn Hoàng Thu cũng từng là phóng viên báo Thanh Niên, giờ đang ở Buôn Ma Thuột. “Lao công đào binh” là những người lính đào ngũ, bị bắt lại đẩy ra tuyến đầu, không được trang bị vũ khí nhưng phải phục vụ chiến tranh, tức là luôn ở chốn hòn tên mũi đạn, là bia chắn đạn, làm tất cả nhưng không được cầm súng. Thế Vũ ngoài tác phẩm "Ngày mới đến Pleiku" còn là tác giả của các tác phẩm "Những vòng hoa ngụy tín", "Người tù ngoan ngoãn", "Mưa trên lầu bát giác", "Công trường cát bỏng"..., còn ông Nguyễn Hoàng Thu thì nổi tiếng với tác phẩm "Người bắt ruồi", sau này có "Con đường đêm", "Đi qua bóng tối", "Krông Ana không đổi dòng".

Ở cực bắc Tây Nguyên này còn sừng sững một "Rừng xà nu", và xuôi đông là "Đất nước đứng lên". Văn Công Hùng kể: Cách đây đã lâu, nhiều giáo viên dạy văn, hằng ngày dạy tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) lại không biết cây xà nu là cây gì? Có lần anh lên Đăklây làm phim thì có mấy cô giáo ở ngay Gia Lai và Kon Tum nhắn anh chụp ảnh cây xà nu cho các cô làm giáo cụ trực quan dạy học. Anh bảo: “Nhà các em đang ở dưới tán xà nu đấy thôi”. Thời ấy Pleiku và Kon Tum còn nhiều thông, đến mức có thi nhân có hẳn tập thơ "Khoảng trời lá thông", nhưng các cô giáo suốt ngày tựa lưng vào thông lim dim mơ mộng lại không biết đó là... xà nu. Còn hai nhân vật trong hai tác phẩm văn chương nổi tiếng của Nguyên Ngọc là cụ Mết và cụ Núp cũng rất lạ, ấy là các ông nổi tiếng trong văn chương và cả ngoài đời, nổi tiếng tới mức khi các ông đang sống, nhiều người đinh ninh các ông đã là... liệt sĩ.

 

          Có lần Văn Công Hùng tìm về được làng Xô Man xưa của cụ Mết. Theo anh Đinh Như Rươn, con trai cả của cụ Mết, thì là làng Xô Man cũ có thể tên thật là Xã Đoàn thuộc Tu Dốp ở cách làng bây giờ đến 70 cây số, và hình như nó đã lẫn đâu đó vào rừng già mà ngay cả khi còn sống cụ Mết cũng chưa bao giờ trở lại được nơi ấy kể từ sau năm 1975. Nguyên do là người Tây Nguyên thường xuyên du canh du cư, thay đổi nơi ở và nơi canh tác, lại còn chiến tranh, giặc giã, còn bao yếu tố khác xảy ra trong gần một thế kỷ đầy biến động. Làng mới Xô Man bây giờ cách thị trấn huyện 30 cây số, nhưng đường đi rất khó. Làng Xốp Nghét, xã Xốp ở đấy còn ba người con của người vợ thứ hai của cụ Mết, có cháu dâu và cả chắt nội ngoại. Họ sống khá chật vật... Anh Rươn con trai cả cụ Mết nguyên là giám đốc trung tâm y tế huyện, có vợ làm cùng cơ quan là người Thái Bình, cưới nhau từ hồi ngoài Bắc rồi đưa nhau về quê chồng, sinh được ba con trai đều đã có gia đình riêng. Cụ Mết tên thật là Đinh Môn. Cụ mất năm 2000. Từ thời chiến tranh, ông nổi tiếng đến mức Pháp từng mời về giao chức và phong hàm thiếu tướng nhưng ông không về. Ít người biết rằng ông không biết chữ. Là trung đội trưởng tuyên truyền vũ trang cách mạng, sau này làm Chủ tịch Mặt trận huyện, ông chỉ biết mỗi một chữ Mết khi ký vào văn bản, còn tất cả ông chỉ truyền đạt bằng... lời nói.

 

Còn ông Núp, có lẽ ở Việt Nam không ai không biết ông bởi cái tiểu thuyết "Đất nước đứng lên" của Nguyên Ngọc, một thời nó phổ cập mọi cấp học. Tác giả "Rừng xà nu" cũng chính là tác giả "Đất nước đứng lên". Làng ông Núp, là cái làng Kông Hoa trong tiểu thuyết ấy chính là làng S'tơ ngoài đời, nằm cách đường 19 chưa đến chục cây số. Lịch sử chiến tranh Việt Nam còn phải nhắc đến chiến thắng GM 100. Trận ấy ở ngay dốc Đăk Pơ. Nhà văn Nguyên Ngọc trước khi quen ông Núp đã đến đây để điều nghiên trận địa này rồi.“Nơi đây, ngày 24 tháng 6 năm 1954, trung đoàn 96 (E96) Quân đội nhân dân Việt Nam cùng với bộ đội địa phương, dân quân du kích và dân công hỏa tuyến, với quân số ít hơn ba lần đã đánh tan binh đoàn 100 (GM 100) tinh nhuệ bậc nhất của quân đội Pháp thời ấy vừa được điều từ chiến trường Triều Tiên về với sự hộ tống của tiểu đoàn khinh quân 520. Với chiến thắng Đak Pơ, Quân đội nhân dân Việt Nam đã bẻ gãy xương sống chiến dịch Atland, tiêu hao 1.100 địch, có 500 chết tại chỗ, 600 bị thương. Bắt sống 800 binh lính, trong đó có quan năm Barroux, chỉ huy GM100. Tịch thu 375 xe cơ giới, có 229 xe còn nguyên vẹn, 1 xe tăng, 18 đại bác 105 li...”. Đó là một số thông tin được ghi ở tấm bia mà Văn Công Hùng có tham gia nội dung. Còn trận này phía Trung đoàn 96 có 147 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, hiện đang được vinh danh và thờ tại đền tưởng niệm này, 80 người bị thương. Không chỉ 147 liệt sĩ của trung đoàn 96, nơi đây còn nhiều liệt sĩ của bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhiều người vô danh khác.

          Văn Công Hùng bảo giờ xe xuống xe lên trên đường 19, khi qua khu di tích này nhiều người hay dừng lại thắp hương ở di tích Đăk Pơ. Lịch sử đi qua, nhưng ký ức còn ở lại. Và có cả văn chương…

 

         Một thời “hai tay hai súng”   

 

           Nhiều đồng nghiệp của Văn Công Hùng khởi nghiệp từ làm báo rồi tiến lên làm thơ, viết văn. Còn anh thì ngược lại, làm thơ từ thời sinh viên rồi mãi sau này mới viết văn, viết báo. Anh đùa, hồi đó cả nước đói ăn thì bọn làm thơ càng đói hơn. Đẻ hai đứa con giữa cái thời khó khăn ấy, anh vẫn kiên trì làm thơ và... nuôi heo. Và việc nuôi heo cũng vào thơ:“Có những giọt nước cơm thừa được đổ vào xô/ Có chiếc xe tòng tọc cột xô nước ấy sau foocbaga/ Có một người chiều nào cũng đi chiếc xe đạp ấy/...Những giọt thơ tích tụ trên đường được nhuộm màu nước gạo/ nghiêng nghiêng nụ cười- ơi vợ- nửa vầng trăng”. Cuối bài còn ghi cẩn thận “Kỷ niệm ngày vợ cân một tạ heo”. Nhưng rồi các con anh đồng loạt vào đại học thì lương hai vợ chồng anh gộp lại chuyển cho chúng xong thì còn lại vừa đủ... ăn xôi sáng. Và thế là anh  chuyển sang viết báo, ban đầu là viết để lấy nhuận bút gửi vào Sài Gòn cho con ăn học, rồi dần dần viết song hành với thơ. Cho đến khi con cái trưởng thành, đi làm, có tiền biếu cho bố mẹ rồi thì anh tuyên bố: “Chỉ chơi, không viết nữa”. Nói là thế  nhưng không dễ buông, vừa không viết thì biết làm gì, vừa anh em bạn bè ở các báo đặt bài, thế là lại viết, như một duyên nợ đời người.

Chị Yến, bà xã Văn Công Hùng làm ngành y, lấy phải ông chồng nhà thơ, không tin thơ có thể nuôi nổi anh chứ đừng nói nuôi con, nên cứ thấy chồng ngồi trước bàn làm thơ là buồn, mà hăng hái đi lấy nước gạo cho heo là vui. Đến lúc thấy anh viết báo có nhuận bút, tằn tiện có thể lo được tiền học cho con thì lại thích anh viết báo hơn... làm thơ. Có lúc nghiêm túc suy ngẫm về báo và thơ, anh cho rằng: Nghĩ cho cùng, “hai tay hai súng” cũng có cái thú của nó, bởi chúng bổ sung cho nhau. Nhưng cũng hết sức cảnh giác, phải luôn nhớ, thơ là thơ mà báo là báo.Viết báo mà như thơ và làm thơ như viết báo là cách nhanh nhất tự hủy diệt mình.

Có một thời Văn Công Hùng nghiêng về viết báo, khi anh nhận lời mời của Văn phòng đại diện báo Văn hóa tại khu vực Miền Trung - Tây Nguyên, đóng ở Nha Trang làm đại diện tại Tây Nguyên. Khi ấy anh đã làm báo được gần 20 năm, đã cộng tác với khá nhiều tờ báo, đang hưởng lương chính thức tại một cơ quan báo chí văn nghệ của Gia Lai. Ban đầu anh nhận làm cho vui vì chế độ chỉ là viết bài nào ăn (nhuận bút) bài ấy, mà nhuận bút hồi đó thì rất thấp. Sau đó anh được “nâng cấp” lên thành phóng viên thường trú, được mở văn phòng báo Văn hóa tại Gia Lai - Kon Tum với chế độ phụ cấpmỗi tháng được năm trăm ngàn đồng.Mỗi tháng báo giao một số tin bài, hoàn thành thì có khoản phụ cấp. Kinh phí đi công tác thì tự thanh toán bằng nhuận bút. Thực ra thì lấy việc viết báo làm vui, chứ cả nhuận bút và phụ cấp chả đáng là bao.Hồi ấy toàn xài điện thoại và fax chứ chưa có email như bây giờ, có tháng riêng tiền trả cho bưu điện đã cao hơn tiền phụ cấp. Nhưng nó cũng có cái vướng nữa, khi ấy Văn Công Hùng còn là người phụ trách tờ tạp chí văn nghệ địa phương và là lãnh đạo hội văn nghệ tỉnh nên không phải lúc nào cũng có thể thích thì đi được.Mà đã làm phóng viên thường trú thì phải nghe lệnh tòa soạn. Thi thoảng một cú điện từ Văn phòng miền Trung – Tây Nguyên hoặc từ “báo mẹ” Hà Nội là phải khởi động ngay, nhưng không phải lúc nào cũng… khởi động được. Như có lần gần sập tối, mưa như trút nước, Tổng Biên tập Phí Văn Tường từ Hà Nội gọi: “Ông chạy ngay lên Sa Thầy, chỗ di chỉ Lung Leng ấy, xem tình hình mưa lũ ảnh hưởng thế nào, nghe nói sắp lút hết rồi, sắp xong hết di chỉ rồi. Lên ngay viết bài, mai gửi”. Lung leng là một di chỉ khảo cổ mới phát hiện, trước đấy anh đã viết mấy bài để bên điện lực phải dừng khởi công cho khảo cổ vào làm trước, xác định đây là di chỉ quan trọng, không được cho ngập nước. Giờ thì nó ngập thật, nhưng không phải do thủy điện, mà do… trời. Anh trả lời tổng biên tập là nhà anh cách di chỉ gần 100 cây số, giờ là sập tối, trời mưa không thấy gì, không thể lên được, nhưng anh sẽ điện nhờ chiến hữu trên ấy, có gì sẽ báo cáo. Tức là làm thường trú thì phải luôn trong tư thế cơ động. Một là mình tự cơ động theo việc của mình, và hai là lệnh cơ động của “trên” gồm cả “báo mẹ” ở Hà Nội và Văn phòng báo ở Nha Trang.

 

Nhớ hồi năm 2001 Tây Nguyên có biến, lệnh của trên là báo chí nội bất xuất ngoại bất nhập. Ngay cái buổi sáng có biến ấy, giữa tâm sự kiện, Tổng Biên tập Phí Văn Tường từ Hà Nội có đến mấy cuộc điện thoại cho Văn Công Hùng bảo nếu không được viết bài thì cứ ghi nhận hết sự kiện, sẽ có ích. Sau đó tổng biên tập còn tăng cường người của Văn phòng báo Văn hóa từ Nha Trang lên chi viện. Anh đón các anh Hà Bình, Lê Bá Dương và Khuê Việt Trường đưa vào Đắc Sơ Mây, là điểm nóng nhất khi ấy, khi đến nơiđược dân làng mời cả rượu, nói chuyện thân thiện như… chưa từng có việc xảy ra mấy hôm trước. Ngay cuộc giao ban báo chí tuần sau do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ trì, Văn Công Hùng bị phê bình là đã không tuân thủ quy định, nhưng phê bình xong thì ông Trưởng ban Tuyên giáo nói cá nhân ông thì cảm ơn anh và báo Văn hóa đã xuống tận làng, sâu sát, nắm tâm tư nguyện vọng của dân, đấy là hành động dũng cảm. Chừng nửa tháng sau, “lệnh cấm” được dỡ bỏ, các cơ quan chức năng lại yêu cầu báo chí vào cuộc vì ngay từ khi sự việc đang xảy ra, báo chí nước ngoài đã đồng loạt đưa tin, tất nhiên đưa tin một phía, nhiều tin rất xa sự thực. Giờ cấp trên mới thấy cấm báo nhà là dại, nên bỏ lệnh. Lúc này Văn Công Hùng đã có tư liệu nên ngay lập tức có tin bài nóng hổi và trung thực, dù báo Văn hóa vào đến tay bạn đọc thì nóng mấy cũng thành… nguội vì đi đường xa quá; báo chỉ in ở một điểm duy nhất là Hà Nội và kênh phát hành cũng rất… từ từ.

 

Có lẽ vui nhất những năm “hai tay hai súng” là Văn Công Hùng có nhiều bạn bè. Có lần chị Yến bảo với con gái: “Sao mẹ lại có thời đảm đang thế nhỉ, khách của ba đầy nhà và liên tục, mà ngày nào cũng vui như tết...”. Nhiều khi nghĩ lại, anh cũng thấy buồn cười. Quen biết đã đành, có đứa chả biết là ai, tự bảo tên này tên kia, là nhà văn, nhà báo ở chỗ nọ chỗ kia, thế là hân hoan phấn khởi đón. Nó đến rồi còn lôi bạn nó đến nữa, chứa hết, vô tư hết, mà là ở nhà tập thể. Có đứa nửa đêm gọi cửa, chủ nhà mắt nhắm mắt mở dậy, nó lảo đảo say, nói em là học trò thầy Phạm Phú Phong. Phạm Phú Phong vừa là nhà văn, nhà giáo đại học, bạn cùng khóa với anh. Nó bảo cho em ngủ nhờ, anh lục tủ lấy cho nó cái vỏ chăn, nó chui vào giữa hai lớp vỏ để chống muỗi, ngủ ngon lành. Sáng đưa đi ăn sáng nó bảo, sao anh tin người thế, lỡ em là cướp thì sao?. Hồi ấy anh ở nhà tập thể, có hai cái giường kê sát nhau, một cái giường to là vợ và hai con gái ngủ, một giường cá nhân là giường của anh, căng một cái ri đô là phòng khách. Ngoài ấy thường xuyên có cái chiếu, lúc nhậu thì nó là chiếu nhậu, sau đấy là chiếu ngủ của bạn bè của anh từ khắp nơi trong cả nước

Ngẫm lại, anh cho rằng một thời khổ nhưng vui. Mà cái thời ấy sống cũng đơn giản, mọi thứ đơn giản, như một cuộc chơi. Có bạn bè, có thơ, anh luôn nhớ về người vợ hiền ngày đêm sát cánh cùng anh. Bài thơ “Vợ”của anh được website VănVN. Net của Hội Nhà văn Việt Nam đánh giá là một trong những bài thơ hay viết về phụ nữ đã thể hiện sâu sắc và độc đáo quan điểm này:

“Có những lúc trốn xô bồ ta về tựa vào em/ như con tàu viễn dương thả neo bám vào đất mẹ/ cuộc đời lặng thầm, cuộc đời gào thét/ trở về bên em ta trở lại chính mình…/ Đã từng có lúc bị gục niềm tin/ ta vịn tình yêu em đứng dậy/ ta trốn chạy cô đơn bằng bao dung nhân hậu/ mỗi khi cuộc đời buồn ta lại nhớ về em...”

Xin mãi làm “người hát rong”

 

Chuyện làm thơ, làm báo của Văn Công Hùng có nhiều giai thoại, phần lớn tôi nghe thế hệ đàn anh đi trước kể lại. Ngày tôi vào Trường Đại học Tổng hợp, anh em Khoa Văn hay kể, Văn Công Hùng có một ước mơ “để đời” khi còn sinh viên là sau này ra trường được hút hết điếu thuốc lá ngon mà không bị đứa nào xin hút ké. Hồi đó đất nước khó khăn, đói kém hành hạ cái dạ dày đã đành, cái cơ thể của sinh viên cũng đói thuốc lá, cần cái nhựa của ni-cô-tin để xoa dịu cái đói hiện tại. Sau này ra trường, trở thành nhà văn (Văn Công Hùng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, từng là ủy viên Ban chấp hành, đã xuất bản 13 đầu sách, trong đó có 11 tập thơ, trường ca và 2 tập bút ký), rồi sau đó nữa làm nhà báo và giàu lên, Văn Công Hùng lại có “tuyên ngôn” khác: “Mãi sẽ chỉ làm người hát rong” - ý nói chỉ làm thơ, rong chơi đây đó, không cần lo nghĩ gì nữa… Còn những chuyện sau là do người ta truyền khẩu hoặc viết lại, như là chuyện hài hước nhưng có thật một trăm phần trăm.

 

Hồi mới lên làm việc ở Ty Văn hóa - Thông tin Gia Lai- Kon Tum (1981), Văn Công Hùng có dịp gặp nhà văn Trung Trung Đỉnh. Nhà văn từng chiến đấu và sáng tác trên mảnh đất Tây Nguyên vào những năm chiến tranh ác liệt, sau này thỉnh thoảng anh trở lại Pleiku thăm chiến trường xưa và đồng đội. Lần nào Văn Công Hùng cũng được phân công lo đón tiếp nhà văn. Được sự khích lệ của nhà văn quân đội, đêm ngày anh hăm hở viết truyện ngắn.Anh mạnh dạn đưa bản thảo cho Trung Trung Đỉnh đọc thử, hồi hộp chờ nhận xét. Nhà văn đọc xong cười, nói: “Tốt nhất theo anh sự đóng góp lớn nhất của chú cho nền văn xuôi nước nhà là hãy đừng bao giờ viết truyện ngắn nữa”. Bị phang một đòn, từ đó anh không bao giờ bén mảng đến thể loại truyện ngắn nữa. May mà còn thơ để anh có cửa nương nhờ, bởi năng khiếu thơ sẵn có trong anh từ thời sinh viên. Nhưng thật oái oăm, ngay bài thơ đầu tiên được in, Văn Công Hùng lại bị dính “đòn”. Đó là bài thơ “Không đề”, in năm 1982, trên tạp chí Văn nghệ Gia Lai - Kon Tum. Bài thơ chỉ có mấy câu: “Tờ lịch mỏng rụng xuống/ Một ngày/ Trục thời gian thêm một vòng trái đất/ Ta loay hoay tìm câu thơ vừa mất/ Tóc trên đầu thêm một sợi chia đôi”. Trong cuộc họp cộng tác viên, tác giả bài thơ bị lãnh đạo nêu ra với kết luận, tư tưởng có vấn đề, tại sao lại phải “loay hoay tìm câu thơ vừa mất”, phải chăng đó là sự tiếc nuối cho chế độ cũ?... Tuy tên anh không được lãnh đạo nêu đích danh, nhưng sau khi giải lao mọi người tiếp tục họp thì không ai dám ngồi cạnh Văn Công Hùng nữa vì sợ… bị liên lụy.

       Nhưng đâu đã hết, mười năm sau, cũng chỉ qua bài thơ “Suối đá”, in trên một đặc san của tỉnh, Văn Công Hùng bị lãnh đạo nói đây là “Nhân văn giải phẩm”, “phản động”, thậm chí có “âm mưu bạo loạn lật đổ”. Ấy là còn chưa kể, sự kiện xảy ra vụ “án” xuất bản cuốn “Truyện cổ Gia Lai-Kon Tum” do anh biên tập cũng có vị lãnh đạo nêu chuyện “Sự tích Pleiku” kết luận, chuyện cổ tích dám nói xấu Pleiku. Họ suy diễn từ một chi tiết trong truyện cổ tích theo chiều hướng xấu, rồi kết luận cuốn sách có vấn đề, và đòi thu hồi. Ông phó Ty Văn hóa- Thông tin bị phê bình thế là quay về cơ quan mắng “anh là người có học nhất cơ quan mà…ngu”. Sau này Văn Công Hùng viết: “Tôi cho rằng, nhà văn tài hoa là người không kể, không tả, mà phải viết về sự mình cảm nhận, mình chiêm nghiệm về vùng đất ấy. Những xê dịch, những rạn nứt, những đổ vỡ... theo quy luật và cả phi quy luật, tức là các yếu tố khách quan và chủ quan tác động vào sự phát triển, sự biến đổi. Phải đưa ra được những dự báo chứ không kể tả, việc ấy của báo chí. Vì thế, Tây Nguyên, Gia Lai hiện lên trong tác phẩm, nó không lồ lộ dễ dãi, không “kêu như chuông”, mà nó chìm vào trong hình ảnh, hình tượng, nó ở giữa chữ, phía sau chữ, nó ở trạng huống cảm xúc, ở kết cấu tác phẩm... Nó còn nằm ở phía những tiên tri, dự báo... Nhà văn phải sống tận cùng với đời sống. Không phải sống kiểu cùng ăn cùng ở, mà còn phải nghiên cứu, học hỏi, phải luôn liên tưởng so sánh, đau đáu nhưng phải tỉnh, yêu thương nhưng đừng gào lên mà cần tỉnh táo...”.

 

Nhà thơ Phạm Dũng, người bạn cùng Khoa Văn khóa I của Văn Công Hùng kể: “Hùng hiền. Ở lớp tôi hồi đó khoảng một phần ba đứng về phe “cách mạng dân chủ”, theo nghĩa thấy những khuôn khổ của Trường đại học Tổng hợp Huế quá ư chật hẹp, thấy cái sự bắt hai đứa hôn nhau phải làm kiểm điểm, thấy cái việc thằng ấy ngủ với con ấy không phải chuyện riêng chim bướm mà đuổi học của chúng, là vô lối. Hùng nằm trong nhóm “dân chủ” nhưng lóm nhóm đi sau. Hùng thể hiện mạnh nhất tư tưởng cách mạng là việc tham gia vào diễn một vở kịch sau đó bị nhà trường cấm và lên án gay gắt. Trong vở đó, Hùng vào vai trai ngoan, diễn rất hay, hay đến nỗi hôm rồi con bé học sau mấy khóa hỏi tôi về Hùng, Hùng nổi tiếng thế, lại bảo: “Cái anh gì lớp anh đóng vai anh sinh viên ấy nhể, giờ làm gì rồi!”. “Em đoán xem hắn làm gì?”. “Không lẽ anh ta làm diễn viên?”.  Phạm Dũng còn chế diễu: “Tôi không còn nhớ tập thơ trước của Văn Công Hùng ngoài một cảm giác đó là một tập thơ của tuổi học trò. Tập đó Phạm Phú Phong viết lời tựa. Tôi nói với Phong: “Thơ thằng Hùng dở mà mày vẫn viết được hay thế, mày khá!”. Phong cười: “Ờ, thơ nó dở mới cần một thằng viết lời giới thiệu hay như tao”. Nhận được tập thơ “Gõ chiều vào bàn phím”, đọc qua một lượt tôi rưng rưng một cảm xúc thật khó tả. Như thể Văn Công Hùng lột xác, thăng hoa. Như thể Văn Công Hùng nhận được đặc ân mà thượng đế đã thiên vị ban cho. Tôi muốn dùng từ thiên vị, bởi vì với tôi ai làm thơ hay thì phải làm hay ngay từ khi còn rất trẻ. Thảng hoặc nếu ai đó bất ngờ “cháy sáng” thì đời sống của người đó nhất định phải có một biến động lớn như một cơn địa chấn bất thần tác động lên tinh thần, cảm thức và nỗi đau trong sâu thẳm tâm hồn. Hùng không có điều đó. Cái chức vụ hữu danh vô thực ở một vùng đất có thực mà hữu danh như Hùng không đem lại cho Hùng một đời sống dư dả, nhưng cũng không thúc ép Hùng rơi vào khốn quẫn, bi đát. Cái cuộc sống như vậy rất dễ làm cho người ta nhàm chán, đơn điệu, tự bằng lòng, và đương nhiên những tác phẩm được làm ra từ những con người đó cũng khó mà có những đột biến bất ngờ. Ấy thế mà “Gõ chiều vào bàn phím”, chỉ cần cái tên đó thôi đã thấy Hùng khác Hùng nhiều quá”.Văn Công Hùng, hay ai khác cũng vậy, được nhà thơ Phạm Dũng khen có thể nói là một điều xa xỉ.

 

Nhưng không như các nhà thơ hay “chê” lẫn nhau, với bạn đọc thì Văn Công Hùng có cả một trời người hâm mộ. Nhiều người trẻ nhớ về anh là nhớ về một người thơ “hát rong” nhưng luôn suy tư, trăn trở, chiêm nghiệm về thế sự mang tính triết luận.  Có người trong đề tài nghiên cứu của mình còn đặt anh bên cạnh các cây bút tài năng của nền thơ hiện đại Việt Nam. Người ta cho rằngVăn Công Hùng là một con người nhiệt tình, hăng hái trong những nhộn nhịp của cuộc sống và sâu thẳm trong tâm hồn anh luôn cháy hết mình với thơ ca. Nhưng công bằng mà nói, với Văn Công Hùng không chỉ có thơ. Trong “gia tài” văn chương, báo chí của anh còn có nhiều phóng sự, ký sự, bút ký có nhiều cái để đời. Gắn bó với miền đất Tây Nguyên gần cả cuộc đời cầm bút, Văn Công Hùng từng tâm sự, suy ngẫm: "Tây Nguyên đang rời xa đi cái gốc nguyên thủy của nó, đang bị giằng xé dữ dội giữa phát triển và bảo tồn, giữa những vòng quay chóng mặt của ngộ nhận và cố chấp, của cả tự ti và áp đặt, của vênh vang và ngu dốt, của thực dụng và hiếu thắng… Chứ trong tôi, một Tây Nguyên hài hòa, nhân văn, trữ tình và đầy khát vọng nhưng cũng rất khiêm nhường luôn luôn thường trực, một Tây Nguyên biết cứ khi nào con người mỏi chân thì lại hiện lên một cái cây bóng mát, một Tây Nguyên có hẳn một nghi lễ khóc trâu trước khi hiến tế, và một Tây Nguyên cương quyết không lừa thần linh, nên dẫu nhà nước hứa rồi nhưng lại không cho thần linh ăn trâu thì họ mang về làng để làm. Bởi họ không ăn trâu, mà là dâng hiến cho thần linh. Sự dâng hiến tự nguyện và thành kính, nhân nghĩa thủy chung và cũng rất giữ lời, trung thực một cách cực đoan như vậy đấy, Tây Nguyên của tôi...".

Văn Công Hùng có nhiều bút ký hay về các vùng đất của đất nước nơi anh từng có bạn bè, nơi anh từng đến, ở lại và ra đi trong tiếc nuối. Với Quảng Trị, lần nào đi ngang về tắt anh đều ghé thăm, vì ở đây anh có nhiều bạn đồng môn gắn bó, cũng là mảnh đất anh có nhiều ấn tượng. Có lần anh tâm sự: “Chả hiểu sao Đông Hà với tôi cứ như là tiền định. Lần nào về tới Huế rồi cũng ngứa ngáy muốn chạy ngay ra Đông Hà. Tôi đã có nhiều lần chạy xe máy từ Huế ra Đông Hà như thế, có khi dưới mưa như trút nước, có khi dưới nắng nhòe trời, có lần chạy xe máy ra đến lúc về thấy đường vợi xa lại vác cả xe máy lên xe đò quay lại. Mà nào Đông Hà có hoa thơm gái đẹp cho cam (nói rõ thêm, gái đẹp thì rất nhiều nhưng không phải của mình), có chăng chỉ là cái thứ nao nao nhớ của riêng mình với những ấn tượng riêng với những người bạn ngoài ấy, hơn nữa, trên thế, là với cái mảnh đất đầy những huyền thoại nhưng lại rất gần gũi, thân thiện này. Đông Hà - thành phố rất lạ. Vừa hiền lành vừa dữ dội. Vừa chừng mực vừa căng cứng. Vừa như kiềm chế vừa như muốn buông xuôi. Vừa như gìn giữ lại như sẵn sàng dâng hiến... Có một nỗi nhớ lặng lẽ theo tôi về. Không chỉ đến Huế, nơi đại gia đình tôi đang ở, mà theo lên tận Pleiku, nơi tôi đang sống và làm việc. Tôi ôm laptop ra gõ vu vơ, và thật lạ, Đông Hà cứ hiện ra như là nó phải thế, mà nào có hẹn ước ấp ủ gì, nào có thề bồi sông bể gì, chỉ là vu vơ, mà nó cứ đau đáu như là từ xưa lắm, tôi đã mắc nợ Đông Hà”...

 

***

Bây giờ nghe nói Văn Công Hùng đã về sống ở Thành phố Hồ Chí Minh và nhận làm giám đốc truyền thông hay văn hóa gì đó cho một tổng công ty lớn. Tôi nghĩ chắc là anh nhẹ dạ cả tin, hay nể lòng bạn bè cứ nhận cho có như một thời “hai tay hai súng”, hay sống tạm ở thành phố này để gần gũi con cháu một thời gian thôi chứ ruột gan, cảm hứng thi cao, báo chí, tất cả bạn tâm giao… đều ở thành phố Pleiku hết rồi. Hồi tôi quyết định chuyển công tác về quê nhà, Văn Công Hùng viết rằng những người xa phố núi Pleku, trong đó có tôi là “cứ thắt ruột mà về”. Chúng tôi “cứ thắt ruột mà về”, còn anh thì không thể. Anh ở lại với miền đất Tây Nguyên đầy kỷ niệm. Anh chẳng thể về đâu, anh ở lại, thậm chí có thể sau này là nằm lại với mảnh đất Tây Nguyên xa ngái, ân tình này, như là định mệnh của đời người.

 Đông Hà, tháng 3/2021

Minh Tứ.



 

 

Không có nhận xét nào: