Bây giờ,
dù đã được trùng tu phục dựng khá nhiều, được quảng bá khá nhiều, nhưng quả là,
lên Kon Tum nếu không để ý thì khó mà tìm được Ngục Kon Tum thuở nào.
Trong
chúng ta chắc chả ai không nhớ, không biết đến cái địa danh nổi tiếng này. Hồi
mới lên công tác ở Gia Lai Kon Tum (chưa chia tỉnh), tôi là người được giao tổ
chức tái bản cuốn “Ngục Kon Tum” này dù cho đến khi ấy chưa biết cái ngục ấy nó
mặt ngang mũi dọc ra sao. Tôi nhớ cuốn ấy, tôi đã cho thiết kế bìa y hệt như
cái bìa cũ, khắc gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh, in Typo lại nhà in Gia Lai.
Phải cả
năm sau tôi mới có dịp lên chỗ ngày xưa từng là ngục Kon Tum. Dấu vết ngục còn
rất ít, hay chính xác là ông thổ công chỉ cho tôi, đấy, ngày xưa ngục ở đấy.
Tôi nhìn, thấy nó là một dãy nhà tập thể, kiểu nhà của khu gia binh một thời, xập
xệ và nhếch nhác, quần áo chăng trên dây thép gai phấp phới, dãy chuồng heo ồn
ã tiếng lợn kêu...
Cái khu
mộ thì được làm lại hoành tráng, có cả bảo tàng nữa, ngay bên bờ sông Đăk Bla
cách di tích nhà ngục một đoạn.
Hình
dung nhé, từ năm 1915 ngục Kon Tum đã được chính quyền khi ấy xây dựng để nhốt
tù thường phạm. Sau phong trào Xô Viết Nghệ An năm 1930 thì ngục được mở rộng để
giam tù chính trị. Hình dung thêm, trên con đường dằng dặc từ Quy Nhơn lên Kon
Tum hồi ấy rừng thiêng núi thẳm, từng đoàn tù chính trị tay xích chân cùm, lê bộ
chân không ngày này qua tháng nọ trên quãng đường gần 300 cây số về nơi giam giữ,
để rồi nơi đây bùng lên cuộc đấu tranh lưu huyết. Lúc cao điểm ngục Kon Tum đã
giam giữ hơn 500 tù chính trị. Và đây chính là nguồn nhân công để làm đường Đăk
Pao Đăk Pét. Số người chết vì phải đi làm đường khá nhiều. Và trong cuộc đấu
tranh lưu huyết diễn ra vào tháng 12 năm 1931 đã có 7 chiến sĩ hy sinh ngay tại
tại giam, 8 người bị thương. Số người hy sinh sau đó được đem ra bờ sông Đăk
Bla chôn. Sau này người ta khai quật thấy có tới 81 chiến sĩ là tù nhân được
chôn ở đây.
Những người cộng sản nổi tiếng
đã từng bị giam giữ ở nhà Ngục Kon Tum có Hồ Tùng Mậu, Đặng Thái Thuyến, Nguyễn
Huy Lung, Trịnh Quang Xuân, Võ Trọng Bành, Ngô Đức Đệ, Trương Quang Trọng, Lê
Văn Hiến, Nguyễn Hoàn, Trần Hữu Dương, Lê Trọng Kha... trong đấy rất nhiều người
quê Nghệ An, bị bắt trong phong trào Xô Viết Nghệ An năm 30 - 31. Ông Lê Văn Hiến,
tác giả cuốn “Ngục Kon Tum” thì quê Đà Nẵng, và là phu quân một người phụ nữ
cũng rất nổi tiếng, bà Lê Thị Xuyến, chủ tịch hội Phụ nữ Việt Nam. Tôi cũng chả
hiểu tại sao ngày xưa các bà chủ tịch Hội Phụ nữ hay được nhớ hơn bây giờ, như
bà Thập, bà Xuyến. Giờ ít người nhớ tên các bà chủ tịch hội Phụ nữ đương thời.
Cụ Lê
Văn Hiến đã viết cuốn “Ngục Kon Tum” vào năm 1937, mục đích như ông viết ở “Lời
nói đầu”: “Ngục Kon Tum phải ra đời để cung cấp cho toàn quyền Brevie, tổng trưởng
thuộc địa Moulet và ủy ban điều tra của chính phủ bình dân Pháp một tài liệu”.
Tức đây là một tập tài liệu, nhưng rồi, nó đã trở thành một tác phẩm văn học ở
cả cách thể hiện và vấn đề được thể hiện. Sau này ông làm Chủ tịch Ủy ban
khởi nghĩa (Ủy ban nhân dân cách mạng) thành phố Đà Nẵng. Cách mạng
thành công, làm Bộ trưởng bộ Lao động, Bộ trưởng bộ Tài chính, rồi
Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước. Năm 1962 làm Đại sứ tại Lào
đến 1976. Ông mất vào năm 1997.
Thời học phổ thông chúng tôi có học về “ngục Kon Tum” với đoạn trích là “cuộc đấu tranh
lưu huyết” và cứ ám ảnh mãi với hình ảnh những người cộng sản “coi cái chết nhẹ
tựa lông hồng”, người này chết người kia xông lên trước hòn tên mũi đạn. Rồi
cũng học những câu thơ của Tố Hữu: “Đường
lên Đak Sút, Đak Pao/Đèo leo ngọn thác, cầu treo mặt ghềnh” (Tiếng hát đi
đày). Tức là cái con đường mà những tù nhân ở Ngục Kon Tum thời này mở. Thời ấy,
tù nhân được “lùa” đi từ ngục Kon Tum lên hướng bắc, mở con đường Kon Tum thông
với Đăk Glây. Giờ tôi phóng xe từ Kon Tum lên Đăk Glây chừng 3 tiếng, nhưng thời
ấy, với cùm dưới chân, xích trên tay và roi trên đầu, di chuyển lên đến nơi làm
đường chắc phải cả ngày, thậm chí vài ngày. Rồi dựng lán, rồi làm đường chỉ bằng
xà beng, cuốc, xẻng... mà như ông Hiến kể, tên cai ngục muốn về Kon Tum nghỉ sớm
nên thúc tù làm suốt ngày đêm, roi luôn luôn sẵn sàng bổ xuống đầu những người
“làm biếng” mà thực chất là mệt quá, đói quá làm không nổi. Nhiều người đã bỏ mạng
khi làm con đường này.
Mở cái con đường Đăk Pao Đắc Pét là để
nối thông ngục Kon Tum với một cái ngục cũng nổi tiếng không kém, hiểm trở hơn,
xa hơn, sâu hơn, hun hút hơn, là ngục Đăk Glây. Nơi đây từng giam giữ các ông Tố Hữu, Nguyễn Duy Trinh, Chu Huy Mân... và
từ đây ông Tố Hữu đã vượt ngục, được dân làng Rô nuôi nấng che chở, rồi về
Thanh Hóa tiếp tục hoạt động, về sau ông viết bài thơ “Mẹ Tơm” để nhắc một thời
ông được bà mẹ Hanh Cù che giấu nuôi nấng. Cũng như thế, sau này khi vào Nam
trực tiếp chỉ huy chiến đấu, Tố Hữu viết “Nước non ngàn dặm” có nhắc đến làng
Rô: “Ơi làng Rô nhỏ của tôi, Cao cao ngọn
núi chiếc nôi đại bàng, Trăm năm ta nhớ ơn làng, Cánh
tay che chở bước đường gian nguy". Sau này dân làng Rô còn gửi tặng nhà thơ Tố Hữu một cặp ngà voi rất
quý.
Năm 1981, khi lên Gia Lai
Kon Tum nhận công tác, mỗi lần từ Pleiku lên Đăk Glây công tác, chúng tôi phải
đi tới 2 ngày, thậm chí hơn. Từ Pleiku đi xe đò lên Kon Tum, rồi từ Kon Tum bắt
xe đi tiếp Đăk Tô. Mất một ngày. Tại Đăk Tô phải nằm chờ xe... zin ba cầu. Phải
xe này mới lên tới thị trấn Đăk Glây, và hành trình này mất thêm một ngày nữa.
Nếu gặp mưa thì... quay về. Thế mà mấy chục năm trước, những người tù cộng sản
đã được đưa lên đây “an trí”. Và họ vượt ngục. Thời ấy vượt ngục chắc dễ, vì
lính canh ít, vả, giữa rừng xanh núi đỏ thế, lạc ra rừng thì chết là cái chắc.
Và nhờ thế mà ông Tố Hữu với ông Huỳnh Ngọc Huệ đã vượt ngục, và thành công.
Cũng như thế, sau này ra Côn Đảo, lênh đênh trên con tàu hiện đại suốt đêm, tôi
cứ hình dung cảnh những người tù đóng bè, mảng... hết sức thô sơ, để vượt ngục.
Hồi tôi ra, tàu khách Côn Đảo 9 và 10, to, đầy đủ phương tiện, thế mà khối anh
say lên say xuống. Đêm mịt mùng, biển mênh mông, chả biết hướng nào ra hướng
nào, con tàu to thế mà mỏng manh như lá tre, huống gì những cái mảng, cái bè
thuở nào các bác tù Côn Đảo dùng để vượt ngục... Nhưng đã nhiều cuộc vượt ngục như thế, nhiều
cuộc thất bại, nhưng cũng đã có những cuộc thành công.
So với di tích ngục Kon Tum, đến thời
điểm được công nhận di tích lịch sử văn hóa quốc gia (1991), dấu vết còn lại
của ngục Đak Glei "dày" hơn, sinh động hơn với một số mảng tường đá,
nền móng, nhà bếp...
Giờ tôi hay lái xe đi đường Hồ Chí Minh
về Đà Nẵng hoặc Huế. Nói thật, nếu không biết trước, không thể nào tìm ra 2 di
tích nhà ngục nổi tiếng này. Qua cầu Đăk Bla một khúc, có một biển chỉ đường
vào khu di tích ngục Kon Tum. Vào một đoạn, bên sông Đăk Bla, có khu mộ, bia và
tượng đài, còn khu nhà ngục thì đã thành khu dân cư, bởi như đã nói, sau đấy nó
đã trở thành khu dân cư.
Chạy thêm 3 tiếng thì tới Đăk Glây, dù
đã có rất nhiều nghị quyết, chủ trương, nhiều lần xắn tay vào, nhưng khu ngục Đăk Glây vẫn nhạt nhòa đâu đó chứ
không tương xứng với những gì nó đã từng hiển hách. Hiển hách ở cái nghĩa những
lãnh tụ cách mạng đã từng “ở” đây, rồi vượt ngục. Lần đầu tiên đi trên đường Hồ
Chí Minh, qua làng Rô tôi đã thốt lên, trời ạ, thời ông Tố Hữu vượt ngục, đây
là rừng thẳm, ngôi làng chon von trên núi, thế mà ông Tố Hữu với ông Huỳnh Ngọc
Huệ mò mẫm trong rừng ấy, chả biết bao nhiêu ngày để tới được cái làng Rô này,
rồi để được dân làng che chở, rồi lại mò mẫm lặn lội từ đây xuống đồng bằng để
ra tận Thanh Hóa hoạt động tiếp. Giờ cái biển làng Rô hình như cũng không còn nữa.
Có lần chở con gái trên xe, cha con tôi nói chuyện về làng Rô, và tôi bảo tí tới
làng Rô sẽ dừng xe để 2 bố con lên thăm, nhưng rồi đã luột qua vì tôi nhớ mấy lần
trước có cái biển làng Rô, chỉ là biển hành chính thôi, chứ không phải chỉ dẫn
ngôi làng nổi tiếng. Nhưng rồi nó cũng đã bị gỡ đi, hoặc hỏng, hoặc một lý do
gì đấy mà tôi không thấy nữa. Giờ con đường Hồ Chí Minh chạy qua làng, chắc
làng cũng phải xê dịch, thay đổi nhiều để hợp với con đường, hợp với những gì
được gọi là hiện đại, đổi thay đang diễn ra ở đây. Con gái tôi bảo, nếu là nó,
nó sẽ cho dựng cái biển rất lớn ở đây, ngay bên vệ đường: Làng Rô, nơi nhà thơ
Tố Hữu từng được che giấu, nuôi nấng hồi vượt ngục, rồi khắc thêm mấy câu thơ của
Tố Hữu viết về làng trích trong “Nước non ngàn dặm” mà tôi trích phía trên, chắc
chắn 100 người cũng sẽ có chục người dừng lại, lên thăm.
Lịch sử là cái đã trôi qua, không trở lại được,
nhưng ký ức về nó, ám ảnh về nó, thái độ với nó... cũng là những điều liên
quan. Di tích ngục Kon Tum đã được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia,
nhưng sự quên lãng không phải là không có nguy cơ nếu con người thờ ơ, không
còn xúc động trước những gì đã xảy trong quá khứ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét