Tôi còn nhiều chuyện vui để kể về ông nữa, ví như chuyến ông đi Châu
Âu đã phải ngồi xe của người... tàn tật để lên máy bay ở sân bay Phờ Răng Phuốc
(Frankfurt), Đức, chỉ vì ông nói tiếng Anh rất hẳn hoi
mà người Đức lại tưởng tiếng... Nhật, sau một hồi hết sức căng thẳng thì cuối
cùng giải pháp tối ưu nhất là... Sit here, cái cô da đen to oành nhưng rất tận
tình, nhân viên sân bay bảo ông thế và ông thun thút nghe thế, rồi mười lăm
phút sau một cái xe điện có ký hiệu dành cho người tàn tật trờ tới, một cái vẫy
tay ra hiệu thế là ông yên vị trên ấy, cái xe điện lách giữa cái sân bay luôn
nghìn nghịt hàng vạn người ấy đến đúng chuyến bay của ông vừa lúc nó chuẩn bị
đóng cửa...
Chơi
với nhau kể cũng hai chục năm có lẻ, nhưng “đánh đu” với nhau một cách kịch liệt
nhất, “sắt son” nhất, nồng nã khắng khít nhất là phải kể tới 4 ngày vừa rồi nhà
văn Sương Nguỵệt Minh vào Gia Lai dự ngày hội sách, với tư cách nhà văn được
ban tổ chức mời vào giao lưu với độc giả, dù tôi cũng bận tối mắt tối mũi nhưng
vẫn dứt khoát giành ra gần 4 ngày cặp kè với bạn.
Ngoài
tư cách bạn bè ra, tôi nghĩ, biết đâu, sau chuyến này, ông nhà văn tài năng này
lại có được “cái gì đấy” về Gia Lai, nên tốn thời gian, sức khỏe đến mấy thì
cũng vẫn... lãi.
Là
tác giả của 11 tập truyện ngắn và tiểu thuyết, trong đó có những tác phẩm được
đọc rất nhiều như “Đêm làng Trọng Nhân”, “Người ở bến sông Châu”, “Mười ba bến
nước”, “Dị hương”, “Miền hoang”..., nhiều giải thưởng văn học, nhiều tác phẩm
được dịch ra tiếng nước ngoài, nhiều tác phẩm được chuyển thể thành phim mà mới
nhất là bộ phim truyện nhựa “Người trở về” được chuyển thể từ truyện “Người ở bến
sông Châu”, Sương Nguyệt Minh (Tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn, khi viết muốn thể
hiện mình yêu vợ, yêu con bèn ký bút danh lấy tên mình, tên vợ (Vũ Minh Nguyệt,
cũng là nhà văn) và tên con là Minh thành Sơn Nguyệt Minh, lúc in thế nào mà cả
2 tác phẩm đầu tiên in báo đều bị lỗi Mo rát Sơn thành Sương, thế là ông giữ
luôn đến giờ) hiện là đại tá, công tác tại ban sáng tác của tạp chí Văn Nghệ
Quân đội, một trong 2 tờ báo văn nghệ hàng đầu nước ta hiện nay. Và ông còn là
cây bút viết báo có hạng, được nhiều báo đặt hàng, mời giữ trang...
Cách
đây... 15 năm, nhà văn Sương Nguyệt Minh đã đến Gia Lai để mở một cái trại sáng
tác. Hồi ấy tạp chí Văn Nghệ Quân đội phối hợp với Binh đoàn 15 mở cái trại
riêng cho các cây bút khu vực Miền Trung Tây Nguyên. Người ta lại thấy ở Sương
Nguyệt Minh tố chất của một... cai ngục. Chả biết từ thời nào người ta đặt tên
những cái cuộc mà các nhà văn được mời về tập trung ở một nơi nào đó, cơm bưng
nước rót, chỉ có mỗi việc ngồi viết, viết và viết, là các trại sáng tác. Và tất
nhiên là các trưởng trại được anh em trại viên gán cho chức danh... cai ngục.
Mô hình trại sáng tác không chỉ ở giới văn học, mà sau này tất cả các giới đều
có, trại Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, văn hóa dân gian, âm nhạc, lý luận phê bình, sân
khấu, điện ảnh... vân vân. Việc “nhốt” các ông bà văn nghệ sĩ ở nhiều vùng miền
vào một khu, ăn ở tập trung trong khi mỗi ông bà luôn mang trong người một tính
cách sẵn sàng bùng nổ, sẵn sàng làm hỏa diệm sơn, nhất là khi đã có tí... hơi
cay, lúc tranh luận về học thuật, cả tranh luận về tài năng cá nhân nữa... dễ đẩy
trại trở thành “thùng thuốc súng”, đòi hỏi ông “cai ngục” phải thật giỏi, cả về
tâm lý, tài năng, đức độ, trong đó cái tài nhẫn nhịn là yếu tố hàng đầu. Sương
Nguyệt Minh làm được điều ấy dù anh cũng rất cá tính. Sau này anh nói vui, trại
năm ấy thành công là nhờ 2 việc, một là ông trưởng trại Sương Nguyệt Minh
không... làm gì cả, và 2 là ông Văn Công Hùng không... viết gì cả.
Cá
tính đến thế này là cùng chứ gì, đang vai trò trưởng ban văn xuôi, cũng còn trẻ,
đã có cơ cấu Tổng biên tập cái tạp chí danh giá ấy, thế mà đùng đùng xin về
hưu, cuối cùng là về ban sáng tác, cái ban rất hay của Tạp chí Văn Nghệ Quân đội
đẻ ra, quy tụ các nhà văn quân đội có tài nhưng không thích làm quản lý, về đấy
ngồi... sáng tác. Khi nào có việc nhớn thì cơ quan triệu tập, không thì cứ thế
rong ruổi. Nên anh đi được nhiều, khắp nơi kể cả ra nước ngoài. Sau lứa Sương
Nguyệt Minh thì Tạp chí Văn Nghệ Quân đội thực sự thay máu, dàn lãnh đạo rất trẻ,
quân hàm thấp. Trước đấy, phó tổng trở lên của Tạp chí này phải là đại tá. Giờ
trẻ, rất trẻ, từ TBT Nguyễn Bình Phương, các phó tổng Biên tập Đỗ Bích Thúy (nữ
đầu tiên làm phó tổng), Phùng Văn Khai, trưởng ban Đỗ Tiến Thụy vân vân. Thì ra
biết rút lui đúng lúc để người trẻ làm việc tốt hơn mình là tố chất của Sương
Nguyệt Minh mà không phải ai cũng có thể làm được.
Sương
Nguyệt Minh cẩn thận và tận tình với bạn dù cũng rất... kiêu ngạo. Lần nào tôi
ra anh cũng phóng con xe Future rất cũ và rất bẩn từ mãi bên Thanh Xuân đến ngồi
với nhau một cuộc, dù có những cuộc mà khi tôi gọi là đã hơn 10 giờ đêm và cuối
năm lạnh cắt ruột. Thường thì biết tôi ra anh chủ động đặt lịch. Ví dụ chuyến
ra dự kỷ niệm 60 năm hội nhà Văn vừa rồi, anh nhắn tin, ra thì gặp nhau ngay
nhé, kẻo hôm sau sẽ túi bụi, anh biết tôi cũng rất đông bạn, nên chủ động... xí
trước. Và còn cẩn thận hỏi thích ngồi với ai. Sau một hồi nhắn tin qua lại, anh
chốt: Sẽ ngồi với Đỗ Tiến Thụy, Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Thế Hùng, Phan Đình Minh
nhé, chỉ 6 người thôi nhé, để dễ nói chuyện. 6 người, mỗi tôi là dân sự, còn lại
là các nhà văn quân đội và công an, những cây bút đang rất sung sức hiện nay.
Tháng 2.1975 là lính Quân khu Hữu Ngạn. Tháng 9.1975 là lính Quân
đoàn 4. Từ tháng 4.1977 lính bảo vệ Biên giới Tây Nam, tại Mặt trận Tây Ninh. Tháng
12.1978 – 4.1980 làm nghĩa vụ quốc tế ở Mặt trận Căm Pu Chia, sau đó vào học
Trường sĩ Quan lục quân 2, ra trường về công tác ở Học viện Quân y, khác với một
số nhà văn quân đội lớp trước, là sĩ quan nhưng không qua chiến trận, Sương
Nguyệt Minh tự hào mình là lính chiến thực sự. Những lúc tếu táo, nhà văn Đỗ Tiến
Thụy, người từng là lính quân đoàn 3 Tây Nguyên, hay đề nghị... chia phe, phe
lính là lính và phe lính nhưng không phải lính nhưng lại là lính, ở Tạp chí Văn
Nghệ Quân đội, và Sương Nguyệt Minh đều được anh em nhà văn trẻ ở Tạp chí Văn
Nghệ Quân đội phong là lính ở hàng... đầu bảng.
Chất lính vẫn sôi sục trong người, nên khi vào Pleiku, ngay sau đêm
giao lưu với bạn đọc Pleiku, anh đòi tôi tổ chức đưa đi biên giới, vào thăm đồn
biên phòng Ia Nan, tranh thủ vượt tí tẹo sang bên kia biên giới, thăm cái
Casino rất hiện đại chỉ cách cửa khẩu có mấy cây số. Gặp những người lính biên
phòng, nhất là thượng tá Phan Đình Thành, trưởng đồn Ia Nan, Sương Nguyệt Minh
rất vui, anh luôn miệng khoe: Mình từng là lính Cam Pu Chia đấy. Của đáng tội,
cái ký ức những năm tháng chiến tranh biên giới Tây Nam ấy, giờ ít lính trẻ biết,
họ nhập ngũ sau đấy, thậm chí là sinh sau những năm tháng mịt mù ấy. Tôi để ý,
bước chân từ cặp chân rất dài, nhà văn đàn ông mà được phái nữ gọi là chân dài
như Sương Nguyệt Minh ít lắm, có vẻ ngập ngừng chứ không thanh thoát như lúc
anh bước trên phần đất thuộc huyện Đức Cơ. Tôi tôn trọng những khoảnh khắc ấy
nên lặng lẽ lánh đi để anh một mình, dù trước đó chúng tôi luôn tếu táo với
nhau.
Hôm giao lưu với bạn đọc ở hội sách, có một bạn hỏi Sương Nguyệt
Minh: Kỷ niệm nào làm ông xúc động nhất. Ông kể, nhiều lắm, nhưng mới nhất thì
nó mới xảy ra ở ngay Pleiku này, ấy là có một cô giáo viên văn rất trẻ, rất nhỏ
bé mỏng manh... dạy ở trường THPT A Sanh, xã Ia Krái, huyện Ia Grai, đã phóng
xe máy vượt 5 chục cây số đường rừng, thăm thẳm, mịt mù... trong đêm ra Pleiku
chỉ để gặp nhà văn Sương Nguyệt Minh một lát. Cô giáo đã rất xúc động ôm chầm lấy
nhà văn, mà theo ông tả là, nếu người ngoài không biết lại tưởng họ là tình
nhân. Cuộc này tôi chứng kiến từ đầu tới cuối nên tôi gật gù xác nhận câu chuyện
lúc ngồi với ông giao lưu. Nhưng hôm sau, trên đường xuống Đức Cơ, tôi nói với
Sương Nguyệt Minh, tất cả chuyện ông kể về cô giáo đều đúng, vì nó mới rợi, và
hiện hữu, chỉ trừ một việc, ấy là ông tả cô ấy một mình phóng xe máy trong thăm
thẳm đường rừng âm u, cô độc quạnh quẽ... thưa ông, đường xuống đấy y hệt con
đường chúng ta đang đi đây ạ, xe phóng 80 cây số giờ không lắc không xóc, và
dân thì ở đầy 2 bên đường, điện sáng choang ông ạ. Sương Nguyệt Minh cười xòa,
thế à thế à, 15 năm trước tôi vào đã có đâu. Ơ, chả lẽ sau 15 năm mọi chuyện vẫn
như cũ à???
Nhớ có lần cuối năm, rét căm căm, tôi ra Hà Nội rồi sướng lên rủ anh
về Ninh Bình chơi. Ninh Bình là quê anh và cũng là quê ngoại tôi. Lúc rủ là gần
nửa đêm, anh OK ngay, và chiều sau chúng tôi đi. Tôi bảo mượn xe riêng đi, anh
bảo về quê mà đi xe riêng nó ra cái quái gì, ra bến xe Mỹ Đình đi, nhưng không
mua vé mà... bắt xe ngoài cổng, rẻ được mười mấy mấy ngàn đấy, mà nhanh. Về, ngồi
nhậu với mấy người bà con của anh, tôi bảo thèm... rêu đá, cái món hồi bé mỗi lần
về thăm bà ngoại tôi hay được ăn. Nó chỉ là rêu mọc trên đá vôi sau mưa, nhưng
người Ninh Bình biến nó thành món ăn tuyệt vời, nhất là khi chan riêu cua nóng
hổi vào. Tôi nhớ món ấy dù hồi được ăn còn bé tí, và cái bát chiết yêu chuyên
cho món ấy giờ cũng kiếm cho ra cũng khó. Anh bảo mấy đứa cháu, bằng mọi giá kiếm
ngay một ít về đãi chú Hùng, ngay bây giờ (đâu chừng 10 giờ đêm). Mấy ông cháu,
toàn loại có sừng có mỏ, có một đứa là chủ cái nhà hàng chúng tôi đang ngồi,
sau một hồi vừa điện thoại vừa trực tiếp phóng xe đi, quay về nói, chú bảo cháu
dời cái núi Cánh Diều kia có khi cháu làm được, bảo xoay cái cầu Lim có khi
cũng xong, chứ kiếm rêu đá lúc này thì cháu đành chịu. Thôi giờ chú hỏi bạn chú
thích gì để cháu chiều trừ món rêu đá thần thánh mà cháu mới chỉ nghe nói kia.
Sương Nguyệt Minh bảo ông kêu món đi, ở đây toàn đặc sản đấy, các cháu tôi nó mời.
Tôi bảo thế thì cho rau lang luộc, loại ngọn dài và thưa mắt ít lá ấy nhé, tức
là thật non ấy, chấm mắm cáy, chỉ mắm cáy thôi nhé, uống rượu Ninh Bình, nhớ giữ
nước luộc. Mấy ông cháu lè lưỡi với ý thích quái đản lúc nửa đêm của cái gã một
nửa Ninh Bình là tôi này. Trở về, nửa tháng sau, tôi nhận được một hũ nhựa lớn
do Sương Nguyệt Minh gửi, trong ấy là... rêu đá, tất nhiên đã phơi khô. Tôi đã
làm một bữa tiệc rêu đá hoành tráng tại nhà kêu rất đông bạn bè tới thưởng thức,
gồm 2 món, riêu cua rêu đá và nộm rêu đá. Và tất nhiên cuộc ấy bạn bè phải chịu
cả tiếng đồng hồ nghe tôi thao thao về rêu đá. Trước khi về một gã bạn can đảm
nói nhỏ vào tai tôi: Nghe ông kể về rêu đá ngon hơn ăn! Tôi không hợp món này,
giờ đi... nhậu tiếp.
Tôi còn nhiều chuyện vui để kể về ông nữa, ví như chuyến ông đi Châu
Âu đã phải ngồi xe của người... tàn tật để lên máy bay ở sân bay Phờ Răng Phuốc
(Frankfurt), Đức, chỉ vì ông nói tiếng Anh rất hẳn hoi
mà người Đức lại tưởng tiếng... Nhật, sau một hồi hết sức căng thẳng thì cuối
cùng giải pháp tối ưu nhất là... Sit here, cái cô da đen to oành nhưng rất tận
tình, nhân viên sân bay bảo ông thế và ông thun thút nghe thế, rồi mười lăm
phút sau một cái xe điện có ký hiệu dành cho người tàn tật trờ tới, một cái vẫy
tay ra hiệu thế là ông yên vị trên ấy, cái xe điện lách giữa cái sân bay luôn
nghìn nghịt hàng vạn người ấy đến đúng chuyến bay của ông vừa lúc nó chuẩn bị
đóng cửa... nhưng câu chuyện đã dài quá khuôn khổ cho phép của trang báo nên hẹn
sẽ kể vào dịp khác. Nhưng nói thêm câu này, về ông, ấy là tôi thích cái tuyên
ngôn văn chương của ông, rằng là, xét đến cùng, văn chương là thân phận con người.
1 nhận xét:
Hay nhỉ.
Đăng nhận xét