Mình tin là nếu ông Nguyễn Văn Chương còn sống, ổng vẫn hãnh diện ngẩng cao đầu: Tớ dân Hà Tây. Nhưng ông đi rồi, hôm qua đã chính thức về với đất, nằm tại Quy Nhơn, nơi ông đã thành nhà thơ.
Bài này mình viết khi ông Chương còn sống, tận năm 2008, ông ấy đã đọc và nhắn tin nói: Hùng ơi, mình... trả nhuận bút cho Hùng nhé, cho mình vui, mình gửi Hùng 500 được không? Thật thà đến thế là cùng. Tất nhiên là mình từ chối quyết liệt và ông cũng bỏ ý định ấy, hôm qua viếng ông xong, ngồi ăn trưa một lúc với anh em văn chương Bình Định, mình có kể chuyện này...
Mọi người đọc tí để biết thêm nhà thơ Nguyễn Văn Chương nhé.
--------
Lâu lắm rồi, hôm ấy có một cái lễ hội gì đấy ở Pleiku, tôi đang lăng
xăng chụp ảnh thì có một cái lưng to bè khoác áo mưa cứ chắn lổm nhổm
trước mặt. Tôi ý tứ tránh hai ba lần nhưng đến lần thứ tư thứ năm gì đó
thì tôi cáu, kéo áo, bảo ông phải cho người khác làm ăn với chứ- Thực ra
thì tôi cũng chỉ chụp ảnh cho vui chứ làm ăn gì- cái lưng to bè quay
lại nhoẻn cười, rút soạt cái card visite đưa tôi rồi lắc lư chụp tiếp.
Trời ạ, name card mà... chia làm bốn ô. Trên cùng là cái tên Nguyễn Văn
Chương, nhà thơ nhà báo, phía dưới chỉ còn tí hin đất được chia làm bốn ô
ghi bốn tờ báo ông cộng tác. Tôi nhớ đâu như báo Tiền Phong, Tạp chí
Lao động Công Đoàn và hai tờ nữa tôi quên. Thì ra ông này là Nguyễn Văn
Chương, người mà tôi đã đọc trên báo khắp trong Nam ngoài Bắc với các bút danh Thôn Trang, Ngọc Hà, Ngọc Hải, Dao Inox... Ông
còn một bút danh nữa là Thục Chương. Mãi sau mới biết, tiếp tục truyền
thống đáng yêu hoành tráng của dòng nhà văn yêu... vợ, ông lấy tên Thục
của vợ ghép vào tên mình thành ra cái bút danh nghe như thiếu nữ ấy.
Hồi ấy tôi nghe anh em ở Quy Nhơn kể rằng, ông là người rất kỹ tính,
viết và in ở rất nhiều báo nhưng đố mà báo nào "quên" được nhuận bút của
ông. Ông có một cuốn sổ ghi rất kỹ bài nào gửi báo nào in số nào, nhuận
bút bao nhiêu. Ông sống cần kiệm, sòng phẳng với phương châm "không nợ
ai và cũng không để ai mắc nợ", vì vậy báo nào hay "quên" nhuận bút là
ông viết thư đòi bằng được. Nghe
rồi mỉm cười và cũng thấy hơi xôn xốn. Đấy là cái hồi bao cấp, nhuận
bút như bèo, nhiều tờ báo coi việc cộng tác viên được in là vinh dự tự
hào rồi, nhuận bút nhuận bẹo gì. Sau này khi báo chí phát triển thì té
ra cái việc riết róng nhuận bút của ông Chương lại là tiên phong. Tôi
bây giờ cũng... đố báo nào quên gửi nhuận bút. Bằng nhiều cách đòi bằng
được, cách cuối cùng là... mua vé máy bay ra tòa soạn nhận. Nhắc chuyện
ấy để kể chuyện này, ấy là cái hồi Hội Văn nghệ chỗ tôi làm đói quá, ông
sếp tôi, nguyên là giám đốc sở Văn hóa, bảo: Mày kiếm mấy cái bản thảo,
tao xuống Nghĩa Bình (hồi này đang còn Nghĩa Bình) xin giấy phép rồi
vào Sài Gòn in (thực chất là bán giấy phép) lấy tiền làm quỹ cho cơ
quan. Giám đốc sở ấy thân tao. Tôi kiếm hai cuốn sách dịch rồi đi cùng
ông xuống Quy Nhơn. Được đãi cơm rượu rồi ông giám đốc văn hóa Nghĩa
Bình giao hai ông cán bộ phòng văn nghệ là ông Chương và ông Hà Giao đọc
thẩm định. Thường thì phải cả tuần, thế nhưng tôi tìm ông Chương và cả
ông Hà Giao bảo: Bác phiên phiến giúp em, ở đây ngày nào em chết ngày ấy
(vì tốn tiền). Chỉ trong một đêm hai cuốn sách đánh máy lem nhem trên
giấy pơ luya mỏng dính, mỗi cuốn ba bốn trăm trang đã được đọc xong và
nhận xét tốt, in được. Hai cuốn sách sau đó được... bán và có lãi. Tôi
và ông sếp của tôi làm hai cái phong bì nhờ một nhà thơ trẻ chuyển cho
hai ông, đấy là tiền biên tập, tên hai ông đều ghi sau cuốn sách.. Sau
này tôi được biết là nhà thơ trẻ ấy đã... tiêu hộ khoản tiền ấy mà
không đưa và cũng không nói gì với hai ông. Chuyện này tôi chưa bao giờ
kể với ông Chương và ông cũng không bao giờ hỏi, nhưng thi thoảng vẫn
nhói lên cái cảm giác nhồn nhột, giống như mình quỵt của ông cái gì?...
Sinh
ở làng Ngọ, xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, thuộc vùng trũng sâu nhất
tỉnh Hà Tây, chỉ cấy được 1 vụ chiêm nên làng xóm quanh năm thiếu đói.
Nhưng bây giờ thì cái làng nghèo đói của ông ấy đã trở thành thủ đô
hoành tráng rồi. Nó góp cho thủ đô Hà Nội một nét của đời sống dân dã
với ao chuôm phân gio, trâu bò lợn gà bếp tranh lửa rạ khói lam chiều
(khi tôi viết bài này thì mấy báo đưa tin: Chủ tịch thành phố Hà Nội đi
thăm mấy xã mới nhập về Hà Nội, trong đấy có xã chưa có... điện và ông
quyết đến tháng 10 phải có điện cho bà con ra người thủ đô, có xã chỉ có
50 hộ có máy điện thoại cố định. Ôi Hà Nội của ta...)... Có người hài
hước bảo: thế mới xứng đáng là thủ đô của cả nước, chứ nếu Hà Nội như cũ
thì chỉ đại diện cho dân thành phố ăn trắng mặc trơn thôi?
Lên
7 tuổi Nguyễn Văn Chương mồ côi cha. 12 tuổi mồ côi mẹ, phải đi làm con
nuôi ở thị xã Hà Đông. Năm 1954 được mẹ đón về quê đi học, đến khi mẹ
chết phải bỏ học 2 năm vì gia đình quá khó khăn. Đến năm học 1960-1961
đi học trở lại, nhưng vào cấp II (lớp 5) bị quá 2 tuổi, phải chữa lại từ
sinh 1943 thành 1945 mới được học (vì số 3 chữa thành số 5 dễ hơn số
khác). Tháng 6-1963, sau khi tốt nghiệp cấp II thì đi bộ đội. Khi học
cấp II đã tập làm thơ, viết ca dao, viết báo in ở báo Tia Sáng của tỉnh
và Ty Văn Hóa Hà Đông. Lớp 6, lớp 7 có thơ in ở báo Thiếu Niên Tiền
Phong, báo Người Giáo Viên Nhân Dân (nay là Giáo Dục & Thời Đại). Là
học sinh giỏi văn, đạt giải khuyến khích của tỉnh Hà Đông (năm học
1962-1963). Trước khi nhập ngũ đã "bợ" giải 3 cuộc thi thơ về đề tài
trồng cây của tỉnh Hà Đông, do nhà thơ Trần Lê Văn làm chánh chủ khảo.
Thích
đi bộ đội và theo con đường văn học là do tác động của những tác phẩm
in trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Ông anh cả giữ thư viện của viện quân
y 108, chủ nhật về thăm nhà, mang cho các em mấy cuốn tạp chí VNQĐ, đọc
và thấy "mê" cuộc sống quân ngũ, mê văn chương, háo hức nhập ngũ. Vào
bộ đội tiếp tục viết báo, làm thơ. Những năm 1964 - 1975 thường xuất
hiện thơ, ca dao, bài báo trên báo QĐND, tạp chí VNQĐ và một số báo chí
khác.
Sau
đấy những bài thơ viết trong thời này được in chung 5 tác giả ở NXB
QĐND năm 1985, tập "Nơi ta có mặt" (gồm Phạm Đức, Nguyễn Văn Chương,
Trần Việt Dũng, Phan Cung Việt, Trần Trung Hiếu), cũng là lúc kết thúc
khoá 2 Trường Viết Văn Nguyễn Du, mở ra một thời Nguyễn Văn Chương
"mới".
Ở
khoá 2 này, bạn bè đồng môn có Nguyễn Trác, Y Phương, Hà Đình Cẩn,
Phùng Khắc Bắc, Kim Chuông, Nguyễn Thanh Kim, Trần Quang Quí, Văn Chinh,
Lê Hoài Nam, Hoàng Phương Nhâm, Nguyễn Lập Em... Nguyễn Văn Chương là
một trong số không nhiều những học viên một buổi học, còn một buổi đạp
xe đến các báo "rải" bài vở, ăn học nhờ ngòi bút của mình. Cho đến bây
giờ, Nguyễn Văn Chương cũng là người nổi tiếng với việc đi... bán sách.
Sách in ra, ông chất lên xe máy, và... hành. Phải nói trong số các nhà
thơ hiện nay, trừ Tạ Văn Sĩ là tay xe ôm chuyên nghiệp, Nguyễn Văn
Chương là một tay xe máy đáng nể. Quy Nhơn Pleiku 200 cây số mà ông đi
như đi chợ. Cứ thấy ông xuất hiện ở phòng tôi là tôi chào ngay: Bác lại
mới in sách ạ? Chúc mừng bác. Mà nào có đi mình Pleiku. Ông còn đi Kon
Tum, Đăk Lăk, Quảng Ngãi, Phú Yên, Đà Nẵng... Có chuyến đi kéo dài hàng
chục ngày, hết sách mới về. Về lại đóng gói sách đi tiếp. Nhiều cơ quan
treo biển "Không tiếp người bán sách dạo" vì bị số người bán sách dạo,
bán theo thư tay, theo giấy giới thiệu hành nhiều quá, ông vẫn cứ vào,
vì "Tôi có bán sách dạo đâu, tôi bán tác phẩm của tôi mà". Phần lớn là
ông vào thì người ta mua, chỗ ít một hai cuốn, chỗ nhiều mươi cuốn. Cái
cuốn "Thơ Nguyễn Văn Chương" mà ông mới ra như sự sơ kết đời thơ in 800
cuốn, dầy 328 trang nặng trịch ông cũng đang đi bán như thế, và cũng sắp
hết rồi. Ông bán giỏi đến mức, cô hiệu trưởng trường phổ thông dân tộc
nội trú huyện Đăk Đoa tỉnh Gia Lai đầu tiên không muốn mua, sau mua một
cuốn và trước khi ông đứng dậy bắt tay thì... "Bác là nhà thơ mà phải tự
đi bán thơ của mình, thương quá... Thôi em mua thêm cho bác cuốn nữa".
Bán giỏi đến mức mà Hội Văn học Nghệ thuật Gia Lai, nơi toàn người có
sách bán (ế) cũng... mua hai cuốn. Ông cứ đi trên đường, thấy có cơ quan
công sở là vào. Đi nhiều đến mức ông quen các nhà nghỉ, xin vào ở không
mất tiền. Kể từ tập "Đêm huyền diệu" in năm 1988 đến tập "Thơ Nguyễn
Văn Chương" năm 2008 là 9 tập ông phải... tự đi phát hành. Nhờ làm báo
đi nhiều quen nhiều nên tập thơ nào cũng bán hết và có... lãi. "Đêm
huyền diệu" in đến 5.000 cuốn. "Lục bát yêu" 2.000 cuốn nhưng bây giờ
cũng chỉ còn 1-2 cuốn lưu. Đi bán thơ cũng lắm chuyện bi hài. Có ông
giám đốc sẵn sàng mua 20 cuốn, 30 cuốn hỗ trợ nhà thơ (nhưng tôi đã gặp
có những ông giám đốc mua cả bó thơ như thế xong bỏ nguyên trên nóc tủ.
Hy vọng ông Chương không phải chịu cảnh như thế). Có ông mân mê cuốn
sách mãi rồi móc tiền
túi
mua một cuốn "Chả nhẽ anh đã đến tận đây...". Có ông thì lắc đầu "Dạo
này công ty làm ăn thua lỗ, công nhân đói quá, anh thông cảm". Có ông
vừa làm chủ tịch HĐQT vừa làm TGĐ công ty lớn mà cầm cuốn sách một lúc
rồi bảo để hội ý lãnh đạo, xin ý kiến tập thể đã, làm như chi bạc tỉ
không bằng. Thế là sách đã không bán được lại còn bị... mất toi một
cuốn. Có ông hiệu trưởng một trường chuyên hệ phổ thông trung học thì
hỏi một câu rất... hồn nhiên :"Mua thơ để làm gì?". Có ông thơ không mua
nhưng lại mời nhà thơ đi...nhậu, vì "Mua thơ không thanh toán được,
nhưng nhậu thì thanh toán cho...tiếp khách". Có người mua thơ, hồ hởi
nắm chặt tay tác giả: Đọc anh đã lâu mà bây giờ mới được gặp... Tuy vất
vả nhưng ông ông hể hả với những cú bắt tay như thế lắm...
Tôi
cứ ngẩn người ra mà xem và nghe ông kể chuyện đi bán sách. Bản thân tôi
cũng có sách nhưng chưa bao giờ đủ can đảm đi bán như thế, thường chỉ
gửi ra hiệu sách, có khi bán xong rồi chỉ đi lấy tiền mà cũng ngại. Lấy
nhuận bút thì nhanh mà sao đi lấy tiền bán sách cứ ngài ngại thế nào?...
Lại
nói chuyện đi, ngoài đi lẻ một mình (để bán sách), ông còn thích đi
thực tế sáng tác cùng nhà thơ Từ Quốc Hoài. Hai người thường đi một xe
máy (ngày xưa là xe cup, còn bây giờ là dream) từ Qui Nhơn ra Đà Nẵng,
Huế ; từ Qui Nhơn lên Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lắc. Năm 1995, cùng Từ Quốc
Hoài phóng xe ra Huế và Nguyễn Văn Chương có 2 câu thơ nhiều người thích
:"Mùa xuân tím biếc mùa xuân Huế/ Áo trắng qua cầu áo trắng bay".
Năm
1997, hai người lại đi xe máy, thay nhau cầm lái lên Tây Nguyên. Đang
đi qua thị trấn Mang Yang thì bỗng nhiên cả xe và người lăn quay ra giữa
đường. May buổi trưa, đường vắng xe cộ nhưng quần áo thì rách toạc,
chân tay ròng ròng máu. Nguyễn Văn Chương cầm lái, thả hồn thơ thế nào
đi chệch ra mép đường mới đổ nhựa lại, chênh nhau đến cả gang tay nên
ngã. Đau, Nguyễn Văn Chương toan quay xe về nhưng Từ Quốc Hoài động viên
và thay lái lại đi tiếp. Vào báo Gia Lai, mấy cô nhân viên trẻ của báo
xuýt xoa thương các nhà thơ, vội lấy bông băng lau rửa vết thương và
băng bó cho. Đến hội Văn Nghệ đúng lúc hội đang tổng kết, thế là hai ông
lấm láp và băng bó được mời làm thượng khách, cũng kính thưa kính gửi
rồi... nhậu. Thế mà rồi đi tiếp lên đến tận rừng Yok Đôn gặp gỡ Ama
Kông, bà Elidabet Kemf để viết được hai bài thơ "Tiếng tù và săn voi" và
"Bà Tây ở Yok Đôn"... Và còn nhiều chuyến đi nữa...
Quả
là với tuổi ấy, sức ấy mà ông còn đi như thế thì đáng nể thật. Lứa trẻ
hoặc là lứa như tôi bây giờ, cũng đi nhiều, nhưng phần lớn là chủ động
mọi mặt, rủng rỉnh tiền nong đủ để thuê chỗ ở thì mới dám đi, và chủ yếu
đi ô tô, chứ không "giang hồ" được như ông. Mới hôm kia, đi bán tập
"Thơ Nguyễn Văn Chương", ông ngồi chỗ tôi một lúc rồi bảo: "Cái chỗ nhà
khách nó hay cho mình ngủ nhờ giờ bận rồi, chưa có chỗ nghỉ đây". Tôi
vừa ngạc nhiên vừa thương ông. Nhà tôi ngày xưa thường xuyên có bạn bè
văn chương báo chí đến ăn ngủ như một câu lạc bộ, nhưng dăm bảy năm nay
bói không ra một mống, vì bây giờ họ đến khách sạn, ổn định xong xuôi
mới gọi tôi, nhưng là gọi... đi nhậu ngoài quán chứ cương quyết không về
nhà hành vợ con. Tôi bảo em chỉ cho bác một nhà khách cũng rẻ tiền, đến
đấy mà nghỉ, ông ngồi im chả nói gì. Tôi cũng định mời ông về nhà mình
nghỉ như ngày xưa nhưng lại sợ ông ngại (mà cũng có thể là tôi ngại),
nên thôi... Sau mới biết ngay chiều ấy ông phóng xe về Quy Nhơn luôn, vì
thơ đã bán hết, ở lại chả làm gì, ông không thích đàn đúm, không quen
nhậu và cũng đang cao huyết áp, phải kiêng bia rượu...
Đến
nay, Nguyễn Văn Chương đã có 9 tập thơ in riêng. Đáng chú ý là "Cỏ
biếc" (Hội Nhà Văn, 1991), "Đoản khúc"(Văn hóa thông tin, 1995) "Lắng
nghe nhịp sống" (Lao Động, 1996), "Cõi người" (Hội Nhà văn, 1999), "Đánh
thức ban mai" (Hội Nhà văn, 2006) đến "Thơ Nguyễn Văn Chương" (Văn học,
2008) coi như "tổng kết" chặng đường thơ.
Viết
cho thiếu nhi cũng là một đóng góp đáng kể của ông. Các tập thơ "Cây
chăm làm" (Giáo Dục, 1998), "Hoa cúc quì" (Giáo Dục, 1999), "Tiếng gọi
vịt" (Giáo Dục, 2000)... Các tập truyện "Hoa mai đỏ" (Kim Đồng, 2001),
"Quà của bà" (Kim Đồng, 2003), "Tai dài tai bé" (Kim Đồng, 2006), "Phép
lạ" (Giáo Dục, 2007) cùng nhiều tập thơ tranh, truyện tranh được NXB
Giáo Dục tái bản nhiều lần.
Trường
ca "Làng" của Nguyễn Văn Chương viết từ 1983, 20 năm sau, 2003 mới xuất
hiện ở NXB QĐND. Đây là trường ca hơn 1200 câu thơ viết về cuộc chiến
đấu ác liệt chống Mỹ của nhân dân xã Phổ Cường (Đức Phổ, Quảng Ngãi) nơi
liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm công tác và hy sinh. Trường ca được dư luận đánh
giá là một thành công của tác giả, đạt giải B giải thưởng VHNT Đào Tấn -
Xuân Diệu của UBND tỉnh Bình Định 5 năm lần thứ 3 ( 2001-2005) cùng một
giải B nữa cho tập truyện "Hoa mai đỏ".
Văn xuôi ông còn có "Cảm nhận dọc hành trình" (tiểu luận, NXB Đà Nẵng, 2003), "Chuyện làng văn" (Thanh Niên, 2005).
Tập
ký và truyện ngắn "Tia nắng cuối ngày" của ông đang được Nxb QĐND in,
gồm 6 tuỳ bút, bút ký, truyện ký và hơn 20 truyện ngắn viết về cuộc
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng cuộc sống hòa bình. Quả thật là
chưa cần biết hay dở thế nào, chỉ nguyên việc liệt kê hết tên các tác
phẩm của ông đã thấy nể phục rồi. Bằng con đường "tự sản tự tiêu" ông
sống khá ổn bằng ngòi bút của mình.
Các
nhà văn người Miền Bắc sống và sáng tác ở miền Trung cũng nhiều, nhưng
có hai người đặc biệt, ấy là nhà văn Nguyễn Quang Hà ở Huế và Nguyễn Văn
Chương ở Quy Nhơn. Hai ông này, một ông Bắc Ninh và một ông ở Hà Tây (à
Hà Nội!) lọt vào hai vùng đất đầy bản sắc (ít nhất là về giọng nói) và
nhận nơi ấy làm quê thứ hai của mình. Tức là số phận gắn các ông với
vùng đất ấy và biến các ông thành người ở đấy, để nếu không tiếp xúc
nghe các ông nói thì luôn nghĩ là các ông người Huế và Quy Nhơn.
Thì
cứ thử hỏi người đọc mà xem, xứ thi ca Quy Nhơn hiện nay có những nhà
văn nào, họ nhắc ngay : Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang, Lệ Thu,
Lê Văn Ngăn, Văn Trọng Hùng, Mai Thìn, Lê Hoài Lương... và nguyễn Văn Chương...
Làm một nhà văn, hạnh phúc chính là điều ấy...
Cùng các bạn Văn Quy Nhơn viếng anh Chương |
2 nhận xét:
Sao lại ghi là:
VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC ĐỒNG CHÍ
Nguyễn Văn Chương
@Võ Xuân Phương:
----
Vì đồng chí Chương đã về hưu, nên đám này do phường tổ chức bạn ạ. Có cả các cựu chiến binh đứng làm hàng rào danh dự nữa...
Đăng nhận xét