Một người Hà Nội là nhà văn nhìn một Hà Nội hôm nay qua lăng kính của các nhà văn một cách khá là chua xót, tiếc nuối. Tất nhiên không thể không tiếc nuối, nhưng nhà văn Trần Chiến có cách tiếc nuối... đẹp.
"Thế còn những người đang sung sức trên văn đàn
hôm nay thì sao? Chẳng may, là tôi lại chơi với vài người có cảm giác
rất nghiệt ngã. Nhà thơ Văn Công Hùng “mô tả” Hà Nội:
mùa thu
trườn qua ngã tư
người xe
người xe đông cứng
mùa thu
tiếng còi như thét
em trùm mùa
thu ninja
và bụi và
nóng và trôi
mùa thu
chết ngạt trên đường"
Hơ hơ, ông Chiến lôi cả mình vào làm dẫn chứng...
Hà Nội đáng thương
Hà Nội từng vào trong thơ văn nhiều thế hệ văn
nghệ, từ những người ở xa, những người sống cách nay đã lâu. Cảm
xúc trìu mến, nhớ nhung hoặc thương sót thường là “chủ đạo”. Những
dòng viết để đời ấy đem in ra khiến kẻ đẩu đâu muốn tìm về nếm
náp, còn người tại chỗ thì tự hào.
Thành phố như một sinh thể phừng phừng, quá đa
dạng, nên ấn tượng trong mỗi tác giả không giống nhau. Tuy thế, trong
trí nhớ của tôi về những trang viết cách nay bẩy tám chục năm thì
ẩm thực là “đầu vị” của nhiều người, và nó lại phản ánh ngay cái túi
tiền của các vị. Một Tô Hoài có vẻ lầm lụi, thuộc nhiều nết ăn
của dân ngoại ô, quà cho Nguyễn Bính có chiếc bánh giò. Thạch Lam
thì không ai tinh nhã, sang trọng bằng, dù trước ông ít lâu có “me” nọ
bắc bậc đến mức “ăn giò nhả bã”. Sau năm 1954, Nguyễn Tuân để lại
phở, món “quà căn bản” và những lần đi uống rượu tây (đâu là uống
“boóng”) ở khách sạn Metropole. Trong Nam, là tuyệt phẩm “Thương nhớ
mười hai” của Vũ Bằng.
Đấy là trí nhớ, một tài sản ngày càng tồi
tệ của con người ta. Nên chi chả nhắc đến nó nữa, mà bắc sang những
trang sách đang có trước mặt, để điểm lại ấn tượng dân văn nghệ để
lại từng thời khắc.
Nguyễn Huy Tưởng tự nhận mình là “nhà văn thiên
về ca ngợi”. Nhưng năm 1956, trong bút ký (?) “Một ngày chủ nhật”, ông
có những mô tả thật ngổn ngang: “Quần áo phần lớn màu tối, lạnh và
khắc khổ, đồng loạt kiểu cán bộ. Hà Nội đã mất nhiều màu sắc.
Gần mép hè, một cặp vợ chồng trẻ sánh vai nhau đi. Người phụ nữ có
bộ mặt xinh tươi, bộ tóc uốn mềm mại, bộ áo dài cắt khéo. Sau một
thời gian dè dặt, phụ nữ Hà Nội lại bắt đầu trang điểm. Nhưng họ
vẫn chưa được tự nhiên lắm. Dù sao bộ áo của người phụ nữ trẻ kia
cũng là màu tươi duy nhất trong đám người đồng phục trên quãng đường
này”… “Nhưng hồ Gươm đã mất nhiều vẻ đẹp lắm rồi. Nước hồ gợn
váng, ven đầy rác rưởi. Bờ không được sạch, lủng củng những quảng
cáo vụng về, bầy vô tổ chức, những biển giới thiệu hình ảnh nước
bạn, hầu như không ai săn sóc, vì mặt kính không mấy khi sạch xác
ruồi muỗi. Có cảm tưởng hồ bị bưng kín và bé lại. Đường đi có
nhiều chỗ lầy lội. Thùng rác như chiếc quan tài lù lù bên lối đi”…
“Phố Tràng Tiền. Người chen chúc nhau đi lại. Nhiều cán bộ và công
nhân viên hơn là người dân sản xuất bình thường tràn ngập các phố xá
trong những ngày chủ nhật. Phản ánh cái tình trạng của một bộ máy
quan liêu cồng kềnh chưa khắc phục được”.
Dự cảm đầu “ngày về” của Nguyễn Huy Tưởng rờn
rợn những âu lo. Nguyễn Tuân thì “trực giác” hơn. Đâu như đang đi bộ,
anh thanh niên nọ va vào rồi mở mồm xin lỗi, nhà văn cảm ơn lại “vì
anh biết xin lỗi”. Giai thoại này chả biết chính xác đến đâu.
Cuộc chiến chống Pháp rồi chống Mỹ sau đó
cuốn người ta đi theo mạch sống khẩn trương, khắc khổ. Khi dòng chẩy
ấy “thỉnh thoảng” dừng lại, hình như Nguyễn Khải là người nhạy bén
nhất trong các quan sát, so sánh. Truyện ngắn “Một người Hà Nội” của
ông trở lui lại thời ta mới trở lại Thủ đô, với một bà cô. “Tôi nói:
“Nước được độc lập vui quá cô nhỉ?”. Cô trả lời: “Vui hơi nhiều, nói
cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ”. Theo cô, chính phủ can
thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng,
phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống với nhau ra sao,
trai gái phải yêu nhau thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn
người ở. Về sau tổ dân phố lại vận động không nên nuôi người ở? Nhà
này trước đây có hai người ở, một anh bếp và một chị vú… Mỗi ngày
chị đi chợ, đều có cán bộ bám theo, dò hỏi: “Chị có bị nhà chủ
hành hạ không? Tiền công có được trả đều đặn không? Thái độ chính
trị của họ là như thế nào?”. Chị vú gắt ầm lên: “Nếu họ không tử tế
thì tôi đã xéo từ lâu rồi, không khiến anh phải xui”. Chị ta kể lại
chuyện đó cho cả nhà nghe, bình luận: “Cách mạng gì toàn để ý
những chuyện lặt vặt”.
“Một người Hà Nội” chuyển sang đoạn sau khi đất
nước thống nhất, gia đình bà cô mở tiệc đoàn tụ. “Trong bữa tiệc
hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về thành phố Sài Gòn rộng hơn,
đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài Gòn cũng
lịch thiệp nhã nhặn hơn người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều
nín lặng… Tôi đã nói điều gì thất thố?”. Một đoạn khác, nhân vật
“tôi” thấy Hà Nội đã sống lại phần xác, còn phần hồn thì chưa. Cứ
nhìn nghe họ buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài
đường là đủ rõ. “Tôi đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, đạp chậm… Một
ông bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào đít xe tôi, may mà
gượng kịp. Tôi quay lại, nói cũng nhẹ nhàng: “Cậu đi đâu mà vội
thế?”. Hắn không trả lời, đạp vượt qua rồi quay mặt lại “Tiên sư cái
anh già!”. Lại một buổi sáng tôi đến thăm bạn…, lát lát phải hỏi thăm.
Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương
mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ”.
*
Các già văn ấy mỗi người mỗi kiểu “phát biểu”
về Hà Nội. Ông Tưởng âu lo, ông Tuân trực cảm, ông Khải kín kẽ sau
nhân vật “tôi”. Dầu sao thì họ đã khuất núi cả, còn mỗi già Tô
Hoài. Thế còn những người đang sung sức trên văn đàn hôm nay thì sao?
Chẳng may, là tôi lại chơi với vài người có cảm giác rất nghiệt
ngã. Nhà thơ Văn Công Hùng “mô tả” Hà Nội:
mùa thu
trườn qua ngã tư
người xe
người xe đông cứng
mùa thu
tiếng còi như thét
em trùm mùa
thu ninja
và bụi và
nóng và trôi
mùa thu
chết ngạt trên đường
Mà trước đấy, ông phó chủ tịch Hội Văn nghệ Gia Lai này đã từng viết, là “Hà Nội cho anh biết nhớ / mùa đông cồn cào rắc muối trong anh”
Mà trước đấy, ông phó chủ tịch Hội Văn nghệ Gia Lai này đã từng viết, là “Hà Nội cho anh biết nhớ / mùa đông cồn cào rắc muối trong anh”
Phan Thị Vàng Anh sống nhiều nơi, chủ yếu phương
Nam,
và có thời “dính” đến Hà Nội. Trong tập “Gửi V.B” được giải thơ của
Hội Nhà văn Hà Nội năm 2007 của chị có câu:
Thốc đến
tận tầng ba giọng nói người Hà Nội
để rồi
Hồ Gươm ngay
dưới kia nay đã thành người lạ
Từng thân thuộc mà thành người lạ là có
chuyện rồi. “Chuyện” ấy không giải quyết được, mà to ra. Gần đây, trong
truyện ngắn có dáng dấp một tự sự “Hà Nội tháng 7 năm 2011”, Vàng
Anh viết:
“Những người cả tuần mới phải ra phố một lần,
những người một bước là lên ô tô, xuống ô tô có thể cười chị em Hà
Nội mùa này trông giống nhau như tạc: váy ngắn hở đùi nhưng bên trên
là áo chống nắng tùm hum, có mũ lụp xụp và manchette phủ dài qua
hết hai bàn tay, mặt đeo khẩu trang, mắt đeo kính râm. Trông các chị,
các cô rất xấu, nhưng có đi làm mỗi ngày mới hiểu được vì sao phải
thế: nắng những năm này hình như có trộn cả hơi xăng, muội than, và
da dẻ phấn son rồi không thể mỗi lúc mỗi rửa như thời còn để mặt
mộc làm căn bản… Áo chống nắng mới cách đây một tuần đã tiến thêm
một bước đi kèm váy chống nắng: quấn quanh thân dưới như xà rông,
những chiếc váy này may bằng vải rẻ tiền càng làm cho thành phố
thêm nhếch nhác. Cả thành phố như đầy những đống giẻ di động, bắt buộc
và có lý…”.
Sau khi quan sát, mô tả, nhà văn sang đoạn sâu
sắc hơn, nghĩ ngợi về căn cốt bên trong đô thị thủ đô:
“Nếu như ở
Sài Gòn có cảm giác cái gì cũng “ngoài” ta, xa ta, thì ở Hà Nội
cảm giác cái gì cũng sát vào ta, cô đặc hơn: trời, cây, người, sự
soi mói của con người, sự thân mật và du đãng của con người, tiếng
người… cái gì cũng như “nước cốt” không ngừng làm ta ngạc nhiên và
hơi sợ hãi vì nó quá gần ta.
Cái sự gần, sự sát ấy, nếu như mới cách đây
khoảng năm năm còn là ở mức dễ chịu vì xe chưa đông lắm, người chưa
đổ về lắm, thì đến năm nay đã trở nên khó chịu. Thứ nước cốt kia
đã thành đậm đặc vì độ dày ken của tất cả mọi thứ, trở nên ngột
ngạt mồ hôi người. Từng ấy sự soi mói được nhân lên, từng ấy giọng
nói Hà Nội nhân lên, sự cau có ngọt ngào hay giả tạo cũng nhân lên…
làm người phương xa như trúng nắng, xây xẩm. Muốn ra đường gặp một
người quen thì phải cọ xát với cả tá người dưng, nhất là hẹn ở
những phố trung tâm thì người dưng vừa đông, vừa vô hồn.
Vô hồn là phải, vì đám đông kia tuy sống nhờ
Hà Nội, không muốn rời Hà Nội, nhưng Hà Nội chỉ là một phương tiện,
không phải là nhà. Cứ nhìn những cuộc bia của hội đồng hương Nghệ An
hay Thanh Hóa là hiểu: họ yêu quê họ biết bao nhiêu – nơi mà họ quyết
tâm ra đi… Đó, ngày nay ta sống trong Hà Nội là sống với các hội
đồng hương khổng lồ và ồn ã. Người Hà Nội gốc với những bà cụ áo
phin nõn rót nước vối ủ cho ta uống, những ông cụ (luôn đi cùng các
bà cụ kia) áo may ô tinh tươm mắt lấp lánh tủm tỉm cười… ngày càng
vắng. Người Hà Nội cổ cũng như cà cuống đồng, biến đâu hết, thỉnh
thoảng bắt được một bà / một ông / một con tưởng như bắt được linh
hồn của một thời”.
Người Hà Nội hằng tự hào về truyền thống
“thanh lịch”, “hội tụ, kết tinh, lan tỏa” của mình. Điều đó là có
thật. Nhưng còn một sự thật khác, là tứ xứ đổ về đây khai thác,
tận dụng, bòn rút thành phố. Xin không cắt nghĩa nguyên nhân (nông thôn
đang trống toang), chỉ nói rằng nó làm thành phố luộm thuộm, tự
phát, nhem nhếch hơn. Hai quá trình thành thị hóa nông thôn và nông
thôn hóa thành thị cứ cuồn cuộn song hành. Trong gia đình “Hà Nội
mới” trưởng giả, con cái hùng hục híp hóp chát chít trong khi ông bố
chồm hỗm hai chân trên xô pha xỉa răng chanh chách.
Ai đấy sẽ bảo các nhà văn nhà thơ trên đời này
ít lắm, những điều họ cảm thấy, nói ra trên đây chả ai nghe thấy đâu.
Nhưng nhiều khi, rất nhiều khi, sự thật, chân lý không nằm trong đầu đám
đông, mà lại do thiểu số ít ỏi nắm.
2012- Trần Chiến
7 nhận xét:
Hà Nội xưa ba sáu phố phường (Nguyễn Bính)
Hà Nội nay sáu ba hội đồng hương (Nghệ An đông nhất)
Hà Nội rông ra thành Hà Nội khác (Hà Lội)
Tìm lại người xưa biết hỏi mấy đường (Thôi luôn)
Nhờ anh Văn Công Hùng xem dùm tôi bình luận bài viết xin lỗi Hà Nội của Mạc Văn Trang
http://blog.yahoo.com/chuongluu/articles/72706/category/L%E1%BB%8Bch+s%E1%BB%AD+1000+n%C4%83m+Th%C4%83ng+Long+-+H%C3%A0+N%E1%BB%99i
Xem rồi anh Lưu Văn Chương à, và, quả là không có gì để bình thêm được nữa...
Bài này anh viết có dẫn dắt và khúc triết hơn bài "Xin lỗi Hà Nội của Mạc Văn Trang"-Rất cám ơn anh
@ Lưu Văn Chương:
-----
bài này của nhà văn nhà báo Trần Chiến đấy bác ạ, huhu...
Bây giờ là Hà nội mới hoàn toàn bác ạ. (Hà nội ngày xưa của các bác chỉ còn trong vài tác phẩm văn chương của những nhà văn như Tuân,Tưởng,Hoài,Thi...).Hà nội giờ khác hẳn Hà nội xưa về mọi phương diện:Diện tích,Dân số,Kinh tế ,Giao thông,Văn minh Văn hóa...
Ai đã tạo nên Hà nội mới? Chắc chắn là không có một người Hà nội xưa nào cả,mà chính là những người trong các hội Đồng hương đấy các bác ạ. Ngay cả chủ tịch HN hiện nay cũng là một người rất nhà quê chẳng biết gì về HN xưa.Nhưng có một điều lạ là những người làm nên HN mới,sinh cơ lập nghiệp ở HN không bao giờ nhận mình là người HN,họ vẫn nghĩ HN cả văn minh và tệ nạn ngày càng tăng là của dân HN mặc dù dân gốc HN chẳng còn ai.
HN xưa 36 phố phường
HN nay 63 hội đồng hương .
Hay .
Dẫu ai cũng biết , đất đai, sông núi chẳng ai dịch chuyển nổi , chỉ con người cùng Văn hoá của họ mới làm nên nét riêng mà tạo thành quê hương , đất nước . Với nó , cả đời con người chẳng thể quên .
HN đã được yêu nhớ cũng chỉ là thế . Nay các đồng hương kéo về HN sinh sống , HN thêm vui ,chào đón , chỉ xin cho được một khoảng cách an toàn để trẻ con chơi đùa đánh xẻng , sô vê ,sờ mó ...chứ đừng bắt bảo người HN không có gốc , rặt nơi khác đến , để rồi bọn trẻ cáu sườn , sẽ đến lúc , đấm vỡ mồm . Chúng đánh nhau thích đấm , đá hơn trò vật tay đôi đấy .
Không bon chen , ghét xu nịnh , chỉ biết lịch lãm là nhược điểm cốt lõi của HN , chẳng ai có thể làm chính trị để lãnh đạo ND , dù không cam hưởng cốm xanh , đậu phụ rán ròn , phở tái mạn nóng hổi ..
Vậy , phải không Bác .
HN
Đăng nhận xét