Lại nhớ hồi chúng ta ồ ạt xây nhà rông bê tông lợp
tôn cho các buôn làng và gọi đấy là nhà rông văn hóa. Kết quả là những nhà rông
ấy sừng sững đứng trơ gan cũng nắng gió, giải quyết khâu oai thôi chứ chả có ai
vào, bởi nó quá xa lạ và không ứng dụng vào đời sống được. Mà mỗi cái nhà rông
văn hóa như thế đến mấy trăm triệu, chả ít đâu?
------------------
Đến tận bây giờ,
cũng vẫn có không ít người Tây Nguyên bản địa nói được đúng cái danh hiệu mà
UNESCO phong cho không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên. Phần lớn người ta
cứ cho rằng cồng chiêng Tây Nguyên là di
sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đấy là cái nhầm rất to, bởi cái mà
UNESCO phong cho ấy, nó là của không gian
văn hóa kia, cồng chiêng chỉ là một thành tố trong ấy. Trong không gian ấy
có con người, môi trường, có quá khứ, hiện tại và cả tương lai, có lịch sử, có
văn hóa... nó làm thành một không gian cho cồng chiêng tồn tại và phát triển.
Và ý thứ 2, thực ra cái danh hiệu ấy, UNESCO chỉ dành để trao cho những giá trị
văn hóa đang có nguy cơ diệt vong. Vậy nên sự thực ở đây là, cái không gian văn
hóa dành cho sự tồn sinh của cồng chiêng ấy, đang có vấn đề.
Đến
giờ vẫn còn nhiều bí ấn về chiêng mà người ta chưa giải đáp. Ví như người Tây
Nguyên chơi chiêng, coi chiêng như thần linh, như một phần đời sống tinh thần
của mình nhưng họ lại không làm ra chiêng. Nghệ nhân đúc chiêng chủ yếu là
người Kinh ở Bình Định, Quảng Nam, thậm chí là Mã Lai, In Đô gì gì đó, nhưng
thợ chỉnh chiêng (lên dây chiêng) chuẩn xác và tuyệt vời thì lại là người Tây
nguyên. Không có các nghệ nhân lên dây chiêng, chiêng không thể chơi trong đội
hình như ta thấy. Những bộ chiêng quý của người Tây Nguyên trị giá mấy trâu,
voi là chiêng Yoăn (kinh), chiêng Lao (Lào), nghe nói được pha đồng đen hoặc
vàng. Nhưng cái cách để người Tây nguyên định giá sự quý của chiêng hình như
lại không phải thế, hình như họ chưa có khái niệm vàng, đồng đen, mà họ chỉ
biết chiêng ấy ông bà bố mẹ đã đổi mấy trâu mấy bò mấy voi, truyền qua mấy đời,
và đặc biệt nữa, nhiều khi nó có sự trú ngụ của thần linh ở đấy.
Cũng
không phải lúc nào người Tây Nguyên cũng có thể mang chiêng ra đánh. Nó có
những quy định rất khắt khe, và cũng không phải lễ nào cũng có thể đánh mà nó
có từng bài cho từng lễ. Rất nhiều cán bộ văn hóa người Kinh không hiểu điều
này, cứ xui dân làng đánh búa xua, mang cả chiêng A Tâu (đám ma) ra đón khách,
và mang chiêng đâm trâu vào lễ Pơ thi (bỏ mả)...
Cũng
như thế, hoàn toàn không có cái gọi là lễ hội cồng chiêng như lâu nay báo chí
và những người tổ chức lễ hội hay nói. Cồng chiêng nó chỉ là một thành tố của
lễ hội. Đúng là cồng chiêng gắn rất chặt với đời sống đồng bào Tây Nguyên, nó
đi cùng từ khi con người mới sinh ra cho đến khi chết đi, thậm chí cả sau khi
chết hàng chục năm. Nhưng bảo nó là một lễ hội riêng thì không phải, nó chỉ là
một thành tố của lễ hội nào đó mà thôi. Người Tây Nguyên theo thuyết vạn vật
hữu linh nên bất cứ một sự vật hiện tượng nào đều có thần linh trú ngụ và tác
động, và vì thế mà bất cứ sự vật hiện tượng nào, từ bất thường đến bình thường
đều được người Tây Nguyên tổ chứng cúng thần. Và cúng thì có cả lễ và hội, và
đấy là lúc chiêng được mang ra sử dụng, lúc thì như nghi lễ, lúc lại như giải
trí, khi thì mang chức năng thông tin...
Cồng chiêng có mặt trong mọi
nghi lễ của cộng đồng cũng như của từng gia đình, từ lễ hội liên quan đến cá
nhân, buôn làng cho đến những lễ hội trong một mùa trồng tỉa của cư dân nông
nghiệp. Với người dân Tây Nguyên, cồng chiêng không đơn thuần chỉ là một loại
nhạc cụ mà còn là một linh khí, là phương tiện giúp con người giao tiếp với
thần linh, đồng thời cũng là phương tiện chuyển tải thông tin nhanh nhất giữa
các buôn làng. Trước đây, đồng bào chỉ đánh cồng chiêng khi có việc. Nghe tiếng
chiêng, những người trong làng, trong vùng hiểu rằng ở phía có tiếng chiêng
đang có việc gì để đến chia buồn hoặc chung vui.
Nhưng cũng không hẳn là
người Tây Nguyên coi chiêng là thiêng liêng rồi chiêng nào cũng thiêng cả.
Xuống làng tôi từng gặp những cái chiêng được đồng bào dùng cho lợn ăn, vất lăn
lóc ở hàng rào. Cũng vậy, có những nghệ nhân khéo tay chế tác dàn chiêng mười
mấy chiếc thành chiêng cải tiến, có thể độc tấu những bản nhạc mới mà chỉ cần
một người chơi. GS Tô Ngọc Thanh là người phản đối quyết liệt việc cải tiến
chiêng này. Nhưng cũng có một thực tế là, chiêng truyền thống muốn chơi thì
phải đợi đủ người, trong khi chiêng cải tiến chỉ cần một người là có thể chơi
những bản nhạc mới rất sống động...
Trước khi trở thành nhạc cụ
như hiện nay, chiêng mang chức năng thông tin. Những tiếng chiêng dài đến nỗi
nhà sàn dài được ví như như tiếng chiêng dùng để báo cho buôn gần làng xa
chuyện đang xảy ra ở nhà mình, làng mình. Như chúng ta biết, làng người Tây
Nguyên thường biệt lập trong rừng, trong núi, thông tin duy nhất thời ấy là
tiếng chiêng. Gõ chiêng lên người ta biết có chuyện vui chuyện buồn, có chuyện
cần xẻ chia, giúp đỡ... sau đấy nó trở thành yếu tố tâm linh, là nơi thần linh
trú ngụ hoặc dùng chiêng để hỏi ý kiến thần linh, sau đấy nữa, nó mang chức
năng tích tụ của cải. Dù không mua đi bán lại, nhưng những nhà sở hữu những bộ
chiêng quý (cùng với ché quý) được coi là nhà giàu trong làng, con cái dễ bắt
chồng và tiếng nói của gia đình ấy được coi trọng.... Khi người Kinh tràn vào,
chiêng mới trở thành hàng hóa. Tôi có anh bạn viết báo, mỗi khi thấy anh có bài
trên báo báo động tình trạng chảy máu chiêng, thống thiết kêu gọi bảo tồn
chiêng Tây Nguyên là tôi biết anh vừa trúng một mẻ buôn chiêng. Có những phi vụ
buôn chiêng lãi hàng trăm triệu đồng. Và bây giờ người ta coi chiêng như nhạc
cụ nữa, dù đa phần người Tây Nguyên chưa coi như thế. Với họ chiêng là để cúng
lễ, phục vụ cho lễ và hội, thế thôi, chứ không có lễ hội cồng chiêng cũng như
không có nhạc cụ chiêng...
Người Tây Nguyên biên chế các loại cồng chiêng
thành những bộ có tên gọi riêng để phục vụ cho những công việc, những lễ hội cụ
thể. Thông thường, một bộ chiêng chỉ được sử dụng trong những nghi lễ có cùng
tính chất: Chiêng tơnăh, kơđơ mỗi bộ có từ 8 – 9 chiếc (thường 3 cồng, 5
chiêng) được biên chế với 1 trống có đường kính mặt trên dưới 1 mét, chỉ dùng
trong những lễ hội vui; Chiêng aráp mỗi bộ có từ 12-13 chiếc trở lên. Trong
vùng người Bahnar hoặc Jrai ở phía tây Trường Sơn, đồng bào có thể dùng bộ cồng
chiêng này trong mọi lễ hội (vui hoặc buồn) nhưng người ta phân biệt được tính
chất và loại hình các lễ hội bằng những bài chiêng khác nhau. Nhưng ở vùng Cheo
Reo Phú Bổn, đồng bào thường chỉ dùng chiêng aráp trong những nghi lễ liên quan
đến tang ma (khi có người chết hay trong lễ bỏ mả). Bộ chiêng Mơtrum (trum)
Kơbâo gồm 3 cồng có núm biên chế cùng 1 hoặc 2 trống vỗ, chỉ dùng trong những lễ
hội có trâu làm vật hiến sinh. Nhiều gia đình, dòng họ giàu có người Jrai còn
có những bộ chiêng riêng để sử dụng trong tất cả những nghi lễ của gia đình,
dòng họ. Nói thế để thấy, không phải lúc nào và ở đâu cũng có thể mang chiêng
ra chơi cả, việc tổ chức các lễ hội riêng lại càng ít thấy. Chiêng là môn nghệ
thuật tập thể, có tính cộng đồng, cần phải đông người. Để có một cuộc chơi
chiêng cần hội đủ 3 thành phần là người chỉnh sửa âm thanh (lên dây chiêng),
người chơi chiêng và người xoang (Múa)...
Phải thừa nhận với nhau rằng, người chơi được
chiêng ở Tây Nguyên đang ngày một ít đi, vì các lễ hội truyền thống đang ít đi
hoặc bị biến tướng. Chiêng cũng không được coi trọng như ngày xưa nữa vì càng
ngày các bí ẩn càng được bạch hóa dưới ánh sáng khoa học. Và nhiều lý do nữa
khiến chiêng đang mất dần vai trò trong đời sống của người Tây Nguyên bản địa. Được
biết ngành văn hóa một số tỉnh, được sự chỉ đạo của Ủy ban tỉnh, đã và và đang
mua chiêng phát không cho các làng. Nó là ý tưởng có thể tốt, nhưng đi vào thực
hiện thì vẫn còn những vấn đề đặt ra, bởi với người Tây Nguyên, chiêng là của
cá nhân chứ chưa bao giờ là của làng. Rồi thì chất lượng những bộ chiêng ấy ai
thẩm định, ai sẽ là người quản lý bộ chiêng ấy... vân vân. Lại nhớ hồi chúng ta
ồ ạt xây nhà rông bê tông lợp tôn cho các buôn làng và gọi đấy là nhà rông văn
hóa. Kết quả là những nhà rông ấy sừng sững đứng trơ gan cũng nắng gió, giải
quyết khâu oai thôi chứ chả có ai vào, bởi nó quá xa lạ và không ứng dụng vào
đời sống được. Mà mỗi cái nhà rông văn hóa như thế đến mấy trăm triệu, chả ít
đâu?
Ứng xử với cồng chiêng không chỉ có ý chí và quyết
tâm, mà cần phải có sự hiểu biết thấu đáo và tôn trọng nó thật sự. Tôi viết
điều này bởi vẫn nhớ trong liên hoan chiêng quốc tế năm nào ở Pleiku, trong đêm
trình diễn chính, tất cả các đội chiêng với các nghệ nhân thứ thiệt phải lui
hết xuống phía sau sân khấu, ra hai bên cánh gà lù mù ánh sáng, dành nguyên
quảng trường với sân khấu chính đẹp huy hoàng cho các diễn viên múa quần áo
mỏng tang sặc sỡ phụ họa cho nhạc của nhạc sĩ NC...
VCH
5 nhận xét:
Cảm ơn bác Văn Công Hùng về bài viết sâu sắc như sự khai phá tối cần cho các cán bộ làm văn hóa nhất là mấy anh đang sính lễ hội và xuyên tạc lễ hội của người Tây nguyên.
Đọc bài của bác Hùng em lại chỉ muốn tè vào mặt cái bọn đang buôn văn hóa người Mông ở Hà Giang.
Tiếng Khèn ( không phải kèn ) của người Mông là dùng để thổi các bài Khèn truyền thống đưa hồn người chết về với tổ tiên. Thế mà nó cứ cho người Mông thổi, múa loạn sì ngầu lên bác ạ.
Nó còn bảo dùng Khèn để thổi bài gọi người yêu. Đau ơi là buồn.
Thực ra các cô gái Mông thích chàng trai Mông vì khi thổi Khèn còn biết múa đẹp và điêu luyện nữa.
Người Mông kể rằng người Mông trước kia có người múa Khèn còn chống vài vào chiếc đòn gánh đặt ngàng miệng chảo thắng cố đang sôi, rồi giơ thẳng chân lên trời và cứ thế thổi Khèn một hồi rất lâu. Rồi người Mông vừa thổi Khèn vừa múa nhiều điệu rất khó, rất đẹp nhưng cuối cùng là dẫn hồn người chết về với tổ tiên người Mông.
Giờ nó sáng tác rất bậy bạ để mua vui và kiến chắc bác ạ.
Đóe mọe chúng nó, tức lắm bác Hùng ơi. Đúng là gỗ mục làm quan, cầm thú hưởng lộc!
Chào Anh VC Hùng Hòa Văn chia sẻ với anh về bài viết trên.
Xin anh tìm và lý giải thêm về các nhạc cụ dân tộc chiêng, trống. Ở một số nơi như Nghệ An không dùng chiêng chỉ có trống trong tế lễ họ tộc. Ở Quảng Nam thì có chiêng trống, khởi chiêng trước trống sau. Ở Đà Nẵng có nơi lại khởi trống trước chiêng theo trống...
Đồng Khánh Ngày Xưa
Lưu Trần Nguyễn
Răng mà cứ theo tui hoài rứa
Cái ông ni mới dị chưa tề
Sớm trưa chiều ba bữa đi về
Đưa và đón mần chi không biết!
Ôi đôi mắt chi mà tha thiết
Đừng có nhìn làm loạn bước tui đi!
Lá thư tình ông gởi mần chi?
Cha mẹ biết rầy la tui chết!
Ông tán tỉnh mần chi không biết
Tui như ma như qủy dưới âm ty
Nói hoài lời hoa mỹ mần chi
Tui còn nhỏ, chuyện tình răng biết được?
Tội tui lắm! Cách cho vài bước
Đừng đi gần hai đứa song đôi
Xa xa cho kẻo bạn tui cười
Mai vô lớp cả trường dị nghị!
Theo chi rứa răng mà không biết dị
Thôi được rồi! Đưa lá thư đây!
Mai tan trường đơị ở gốc cây
Tui sẽ tới trả lời cho biết...
VINH HOA- NTU DAY.
ONG NÓI VE BIEN, SAO KO THẤY VẬY.
ONG VE BIEN, TUI CHO ONG UONG AMACONG LUON. He, he, he ...
OK bác Vĩnh Hòa, sẽ về, sẽ hành bác, uống Ama Kong với tôm hùm hỉ, nhập 2 thứ làm một hắn là cha nội A Ma Kong luôn, hì...
Đăng nhận xét