Thứ Hai, 9 tháng 2, 2015

"THÔI EM NẰM LẠI VỚI ĐẤT LÀNH DUY XUYÊN"


Chưa hết, còn thăm thẳm nỗi nhớ con, đứa con gái bé bỏng phải cai sữa mẹ giờ ở một phương trời khác, một thế giới khác, bởi danh chính ngôn thuận, đất nước mình bị chia hai, miền Bắc mịt mù, miền Bắc mênh mông, miền Bắc hậu phương nhưng để về được đến hậu phương ấy là cả diệu vợi xa xôi, là hiểm nguy rình rập từng phút từng giây… từng ấy mối lo, từng ấy mối bận tâm, từng ấy quan hệ trong người con gái Hà Nội bé nhỏ giữa ngổn ngang xung quanh là chiến trận, đạn bom, là cái chết cận kề...
------------





          Cuối cùng thì một ngày giáp tết Mùi 2015, cùng nhà văn Thái Bá Lợi, nhà lý luận phê bình Hồ Thế Hà, tôi cũng đã đến thăm được mộ chị Dương Thị Xuân Quý, nhà văn nữ mà tôi rất kính trọng, khâm phục cả văn tài và nhân cách sống.

          Nhưng phải ngược một thời gian về với thời sinh viên của tôi. Chừng bốn chục năm trước.

          Hôm ấy lũ sinh viên năm 2 chúng tôi tổ chức ngày 8/3 cho chị em nữ trong lớp. Không lòe loẹt như bây giờ đâu, hoa hoét cũng chả có. Đói dài ra ai nghĩ đến hoa. Có chăng ai quý ai hơn người khác tí ti thì tối nháy nhau đi đãi ly chè, còn thì chúng tôi phím với thầy giáo dạy hôm ấy, cho chúng tôi một tiết để… tán về phụ nữ. Và một gã lôi thôi xộc xệch nhất lớp đứng lên đọc bài thơ “Bài thơ về hạnh phúc” của Bùi Minh Quốc. “Thôi em nằm lại với đất lành Duy Xuyên/ Trên mồ em có mùa xuân ở mãi/ Trời chiến trường vẫn một sắc xanh nguyên/ Trời chiến trưòng không một phút bình yên…/ Anh sẽ sống đẹp những ngày em chưa kịp sống/ Sẽ yêu trọn những gì em chưa kịp yêu”… Cả lớp lặng đi. Nhiều bạn nữ lén lau nước mắt. Một bạn đứng lên kể rành rọt: Đây là bài thơ của nhà thơ Bùi Minh Quốc viết trong nỗi đau tận cùng trước cái chết của vợ, nhà văn Dương Thị Xuân Quý. Chị Quý khi ấy là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, mới sinh con được mười mấy tháng nhưng đã gửi con cho bà ngoại để vào Nam, vào đúng chiến trường khốc liệt nhất Miền Nam hồi ấy là Quảng Đà để vừa làm báo viết văn, vừa trực tiếp chiến đấu, và cũng để chia lửa với chồng là nhà thơ Bùi Minh Quốc đang chiến đấu ở vùng ấy. Chị đã trải qua tất cả những gì là dữ dội nhất của cuộc chiến tranh với tư cách người lính. Thế mà chị lại còn là phụ nữ, phụ nữ ở nơi rất ít phụ nữ, là nhà báo, nhà văn, và là người vợ chứng kiến chồng mình hàng ngày chịu đựng và chiến đấu như một người lính. Chưa hết, còn thăm thẳm nỗi nhớ con, đứa con gái bé bỏng phải cai sữa mẹ giờ ở một phương trời khác, một thế giới khác, bởi danh chính ngôn thuận, đất nước mình bị chia hai, miền Bắc mịt mù, miền Bắc mênh mông, miền Bắc hậu phương nhưng để về được đến hậu phương ấy là cả diệu vợi xa xôi, là hiểm nguy rình rập từng phút từng giây… từng ấy mối lo, từng ấy mối bận tâm, từng ấy quan hệ trong người con gái Hà Nội bé nhỏ giữa ngổn ngang xung quanh là chiến trận, đạn bom, là cái chết cận kề. Thế mà chị còn viết. Tôi nhớ từ hồi ấy đã đọc một cái chuyện của chị, viết về cô thanh niên xung phong. Trong trẻo và dũng cảm, xúc động và xốn xang…

          Và rồi, chị hy sinh, đúng đêm mùng 8 tháng 3 năm 1969 tại xã Duy Thành, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Lính khui được hầm của chị là lính Nam Triều Tiên, ác nổi tiếng thời bấy giờ. Ngày chị gửi đứa con gái để vào Nam là tháng 4/1968.

          Chưa đầy một năm vào chiến trường thì chị hy sinh. Chị đã chiến đấu như một người lính.

          Anh Võ Bắc, chủ nhà bây giờ nơi anh Quốc đặt bia và xây mộ chị kể hồi ấy đã biết chị bị khui hầm. Nhưng rồi thi thể chị ở đâu thì không biết. Có thể những người lính bắt được chị đã mang chị đến một chỗ khác rồi chôn. Cũng có thể  họ mang chị ra bệnh viện Đà Nẵng chữa trị rồi chị mất và bị liệt vào danh sách vô danh, có thể thế này, có thể thế kia… nhưng chỉ biết, chồng chị và đồng đội của chị, những nhà văn cũng thời như Nguyễn Bá Thâm, Thái Bá Lợi, Thanh Quế… đã đi tìm chị rất nhiều, và ngay trong cái vườn có cái hầm mà chị bị phát hiện cũng đã được đào bới rất nhiều lần để tìm di hài chị…

          Cho đến một ngày, có một người mà anh Quốc rất quý, tên là Đặng Xuân Ba, cũng là một cựu chiến binh, nói rằng sẽ tìm được chị, ở trong chính khu vườn ấy.

          Thế là hân hoan, tất cả kéo đến khu vườn. Và kỳ lạ, chị hiện lên thật. Đúng hơn là những di vật, đặc biệt trong ấy có cái kẹp tóc, có khắc chữ hẳn hoi: Tặng chị X.Quý. EI

          Thế là anh chị chủ vườn, vô cùng hào sảng và yêu quý cả chị Quý và anh Quốc, đã cho hẳn miếng đất để anh Quốc dựng một hòn đá nguyên khối được họa sĩ Trần Hồng chế tác thành tấm bia, và phía sau tấm bia là ngôi mộ chị Quý. Ngôi mộ không hài cốt, tất nhiên.

          Khỏi phải nói anh Quốc và bạn bè đã vui mừng đến thế nào. Họ đã bỏ ra nhiều năm trời, đào tung hết vùng ấy để tìm chị, nhưng chỉ thấy một mẩu khăn dù chị hay dùng ngày ấy, giờ rành rành là chị, dẫu không xương thịt nhưng cái kẹp tóc kia là bằng chứng không thể chối cãi là chị đã nằm đây…

          Mấy tháng sau, báo chí đưa tin, ông  Đặng Xuân Ba bị bắt tại Quảng Trị, lừa đảo tìm mộ liệt sĩ.

          Số là sau khi “tìm” được chị Quý với di vật không thể chối cãi thì danh tiếng ông này nổi như cồn. Và ông ra Quảng Trị “hành nghề”. Khi bị bắt trong hành lý của ông có rất nhiều “di vật” liệt sĩ, có cả những lọ Penicilin ghi sẵn tên những liệt sĩ mà ông đang tìm. Khi những người đào hài cốt và gia đình đang chăm chú đào thì việc lén thả những lọ Penicilin và “di vật” chuẩn bị sẵn chắc cũng chả khó khăn gì. Mới đây Cậu Thủy cũng lặp lại chiêu ấy sau khi đã lừa hàng nghìn người thì bị bắt…

          Thế là bây giờ, nơi chị hy sinh thành nơi chị an nghỉ.

          Chúng tôi để xe ở đầu làng, đi bộ vào. Bà con trong làng rất thân thiện, nhiều người hỏi trước: về thăm chị Quý hả? Chị Quý, cái tên ấy từ lâu đã trở nên thân thiết, trở thành một phần đời sống của bà con nơi đây.

          Đang làm đồng từ rất xa, vợ chồng anh Võ Bắc cũng vội vã chạy về. Trên mộ chị, một lọ hoa vạn thọ còn tươi. Nhà văn Thái Bá Lợi kể khi khuân hòn đá bề để làm bia thì chưa có con đường xi măng như bây giờ, mà toàn ruộng. Ông Nguyễn Bá Thâm phải quan hệ với điện lực Quảng Nam mượn cái xe cẩu, và huy động cả làng ra đẩy hòn đá vào.

          Giờ làng thanh bình quá thể, rất đẹp và trữ tình với quanh co đường có những hàng cau soi bóng, những ruộng rau, luống khoai xanh mướt, như chưa từng có những ngày chiến tranh bom đạn ở đây, chưa từng có chuyện một nữ nhà văn nhỏ bé yếu đuối cô đơn giữa vòng vây trùng điệp những người lính Đại Hàn và bị bắn chết ở đây. Anh Võ Bắc kể, hồi ấy dẫu còn nhỏ nhưng cũng nhớ, lính đông lắm, đóng rất lâu trong làng, dùng máy ủi, máy xúc chà đi xát lại, lật từng mét đất tìm hầm, vậy nên dẫu cùng hầm với 4 nam du kích, tận tay anh du kích tên Mười bế chị lúc trúng đạn thấy chị tắt thở rồi, mà vẫn không thể nào tìm ra chị, dẫu đã dùng tất cả mọi phương pháp từ thô sơ đến hiện đại, dù những lời linh thiêng nhất, những nghĩa cử xúc động nhất đã dành cho chị, hôm nay, chị vẫn chưa về, xương thịt chị vẫn lạc đâu đó ở mảnh đất Duy Xuyên này…

          Vẫn có điều buồn, nhà văn Thái Bá Lợi ưu tư: Chị Quý vẫn chưa được phong anh hùng, dù tất cả những việc làm của chị, sự hy sinh của chị, xứng đáng là anh hùng, hơn hẳn nhiều bác đã được phong anh hùng, không kể cái ông mới bị tước danh hiệu anh hùng. Nhưng cơ quan cũ của chị là khu ủy khu V thì đã giải tán, bây giờ nơi có tư cách làm hồ sơ cho chị theo quy định là báo Phụ nữ Việt Nam, mà làm  thì vô cùng nhiêu khê, nên… anh Lợi bỏ dở câu nói và tôi hình dung cái đoạn trường của câu bỏ dở ấy…

          Thôi thì chị nằm lại đấy, như câu thơ của chồng chị, nhà thơ Bùi Minh Quốc viết và được khắc vào tấm bia khổng lồ kia: Thôi em nằm lại với đất lành Duy Xuyên…

          Chao ơi đất lành thế, mà đã từng có những ngày khủng khiếp đến thế…
                                                       

Không có nhận xét nào: