Trong chân dung nhà văn Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Quang Lập có đoạn: "Giống như Văn Công Hùng, anh Phê suốt đời làm phó hihi"- Mình mới gặp anh Phê ở Huế, được anh tặng cuốn "Biết đâu địa ngục thiên đường", đang đọc đến ngốt thở- Lần này mình về xách gần 30 kg sách toàn của các bậc oách như Đỗ Chu, Tô Nhuận Vĩ, Nguyễn Khắc Phê...- nhưng ý mình nói là, còn một nhân vật oách nữa cũng suốt đời làm phó, dù cuộc đời ông này, cả văn chương và chiến đấu, đều oai hùng cả. Ổng vào chiến trường Miền Nam khi mình còn bé tí, lại ở cái chiến trường khốc liệt nhất là Quảng Đà, oánh nhau như điên, và vẫn giữ được gáo... thế mà khi về hưu cũng là... phó. Và chơi với bác này rất thích, vì tha hồ chọc ông mà ông chỉ cười hoặc gân cổ cãi lại, bảo mày nói phét, tao làm gì hư hỏng thế...
Ðặc điểm lớn nhất của nhà văn, nhà thơ Thanh Quế là ông... không biết đi xe gắn máy. Giữa phố phường Ðà Nẵng đông đúc, cứ thấy ông nào treo vắt vẻo cái cặp to đùng trên ghi đông xe đạp, đầu đội bê rê hoặc mũ lưỡi trai, nhẫn nại đạp vẹo vọ trên đường, ấy là... nhà văn Thanh Quế.
Nhưng thực ra ông là người chính gốc Phú Yên. Tại xứ "Nẫu" ấy, ông còn mẹ già và các em gái. Còn mình, sau chiến tranh, ông "định đô" ở thành phố Ðà Nẵng, nơi ông đã gắn bó và cầm bút gần nửa thế kỷ qua. Ông là học sinh miền Nam, ra bắc học ở trường học sinh miền Nam số 24 Hà Ðông rồi vào học khoa sử Ðại học Tổng hợp Hà Nội. Rồi vào chiến trường khu năm năm 1969. Thuở còn sinh viên, lứa như chúng tôi đã được đọc văn ông, những tác phẩm viết về chiến tranh, nóng hôi hổi mùi bom đạn và trắng đến nhức mắt, khô không khốc những cồn cát miền Trung mà chúng tôi ở miền Bắc thời bấy giờ nhờ đọc văn ông mới biết. Ông đồng lứa với các nhà văn Chu Cẩm Phong, Trần Vũ Mai, Bùi Minh Quốc, Dương Thị Xuân Quý, Cao Duy Thảo... những người đã gắn cả tuổi trẻ của mình vào chiến trường Quảng Ðà khốc liệt. Rất nhiều nhà văn đã mãi mãi nằm lại ở vùng đất này, có người đến giờ vẫn chưa tìm thấy di hài. Ðồng đội cũ đã dựng ở bảo tàng quân khu năm một tấm bia khổng lồ bằng đá quý từ Bình Ðịnh khắc tên các liệt sĩ văn nghệ hy sinh. Và vì thế, nhà văn Thanh quế bây giờ ngoài việc viết văn như trả một món nợ với cuộc đời, với quê hương, còn lặng lẽ làm một cái việc là viết hồi ký về những tháng ngày hào hùng đã qua ấy, về những nhà văn, những văn nghệ sĩ đồng đội đã anh dũng ngã xuống với tư thế là những người lính. Văn, thơ và hồi ký là ba thể loại đang song hành cùng ông. Ông cũng viết rất nhiều cho thiếu nhi, điều mà không phải nhà văn chuyên nghiệp nào cũng làm được. Thoạt nhìn, ông giống bác đưa thư hơn là nhà văn. Xuề xoà, vui tính, nói to, hay cười, cả nể, luôn luôn cố hữu một cái mũ trên đầu vì ông bị... hói, nhưng thơ ông nén chặt tinh tế đến kỳ lạ. Thơ ông thường ngắn, rất ngắn, nhưng dung lượng rất lớn. Ông không câu nệ chữ, không câu nệ vần mà chú trọng tứ và ý tưởng lấp lánh sau những hàng chữ. Và vì thế mà nó có khả năng công phá. Ðây là một bài thơ của ông, bài "Hành trang": Cái ngày bàn tay thần chết sờ lên sống lưng tôi
Phả hơi lạnh như băng của nó
Tôi mỉm cười bảo:"Hãy chờ tôi tí
Tôi còn chuẩn bị hành trang"
Tiền bạc, của cải, nhà cửa, áo quần
Những thứ đó không cần gì cho tôi cả
Những tuyển tập Văn, Thơ, Triết học của những bậc thiên tài
Tôi cũng chẳng mang đi nổi
Trước sự thúc giục của thần chết đứng bên
Tôi chỉ cầm theo một cây bút nhỏ
Ðể từ thế giới bên kia tôi viết cho những người đang sống
Ðó là những gì tôi mang theo vào giây phút cuối đời
Khi bàn tay thần chết sờ lên sống lưng tôi.
(1993)
Có bạn đọc quen đã hỏi tôi rằng: Thế này mà là thơ à? Mà lại được nhiều người khen hay, được chọn vào tuyển thơ Việt Nam 1975 - 2000. Quả là so với thơ thông thường, nó hơi khó đọc thật. Ngay so với tạng thơ của tôi, nó cũng khác một trời một vực. Nhưng đấy chính là quy luật sống còn của thơ: Ðơn nhất, không lặp lại. Và thơ cũng có nhiều cách để thể hiện. Có thơ thiên về hình ảnh, vần, tính nhạc. Có thơ thiên về lập tứ, vượt qua mọi ràng buộc để giải phóng tư tưởng, nói hết, nói tràn được những điều muốn nói. Có thơ dồn nén ngôn ngữ như ta dồn bộc phá, có sức bung nổ rất cao. Có thơ chỉ chú trọng đến âm thanh... Thanh Quế thiên về triển khai tứ theo một quy luật ngôn ngữ nghiêm nhặt. Bài thơ này khiến ta xúc động ở chỗ: Viết về những giây phút cuối cùng của cuộc đời mà vẫn vô cùng bình thản, thậm chí có chất u mua. Thông điệp của ông chính là: Từ thế giới bên kia tôi viết cho những người đang sống. Một thông điệp đầy chất nhân văn cộng sản chân chính của một nhà văn đã lăn lộn qua chiến tranh, đã từng nhiều lần bị thần chết sờ lên lưng, đã dùng ngòi bút của mình thắp đuốc tìm về cuộc sống. Và vì thế mà yêu cuộc sống đến cháy bỏng, đến chết rồi vẫn muốn viết cho những người đang sống.
Thanh Quế và họa sĩ Lương Xuân Đoàn |
Thanh Quế sinh đúng năm đất nước độc lập tại huyện Tuy An, Tỉnh Phú Yên. Ðến nay ông đã xuất bản khoảng hai chục đầu sách. Có những câu thơ của ông cứ găm vào tâm trí tôi: Mênh mông vườn nối vườn/ Anh vừa đi vừa hái bao nhiêu quả/ Ðến lúc mệt nhoài trong nắng hè ngồi nghỉ/ Lấp loáng sau vòm cây/ Anh bỗng nhận ra/ Chùm quả anh chưa gặp bao giờ... Cái quy luật kiếm tìm của con người nó như thế. Nhiều khi vì một phút lơ đãng, ta đã bỏ qua một cái đích kiếm tìm. Cuộc đời luôn trộn lẫn cái bình thường và cái phi thường. Nhận ra nó là cả một cuộc kiếm tìm không ngừng không nghỉ. Và kiếm tìm chính là một mục đích cao cả của con người chân chính, là hành vi biểu hiện cao nhất khả năng người của con người, những con người luôn vươn lên tự hoàn thiện nhân cách một cách cao đẹp nhất...
Ðặc điểm lớn nhất của nhà văn, nhà thơ Thanh Quế là ông... không biết đi xe gắn máy. Giữa phố phường Ðà Nẵng đông đúc, cứ thấy ông nào treo vắt vẻo cái cặp to đùng trên ghi đông xe đạp, đầu đội bê rê hoặc mũ lưỡi trai, nhẫn nại đạp vẹo vọ trên đường, ấy là... nhà văn Thanh Quế. Có lần tôi và nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng bay từ Hà Nội về, phải transit ở ga Ðà Nẵng 2 tiếng, thế là đi taxi vào tìm Thanh Quế. Ông rủ chúng tôi sang thăm nhà văn Ðà Linh ở NXB Ðà Nẵng, tiện thể... nhậu luôn. Nhưng ông không cho chúng tôi đi taxi mà kêu một cái xích lô để tôi và Nguyễn Thanh Mừng ngồi, còn ông nhấp nhổm đạp xe bên cạnh, nói chuyện oang oang, nhiều người đi đường ngoái nhìn, chắc tưởng ba lão... gàn. Gần đây ông được trang bị điện thoại di động, mà cái cách ông dùng cũng có một không hai. Ấy là ông chỉ biết ai gọi tới thì bấm cái nút xanh rồi quát lên rất to "ai đấy". Còn gọi cho ai thì ông rất cẩn trọng tay trái giữ máy, dùng ngón trỏ tay phải chọc từng số trên bàn phím, tất nhiên trước mặt là cuốn sổ ghi số điện thoại. Có một lần gọi cho tôi, ông hoan hỉ quát rất to trong máy "Sao chú biết anh gọi" khi nghe tôi vừa mở máy đã lễ phép chào đúng tên ông. Thế mà hiện nay, ông giữ rất nhiều trọng trách trong làng văn chương: Uỷ viên ban chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam, trưởng ban liên lạc các nhà văn miền trung (một vị trưởng ban mẫn cán và đầy trách nhiệm trong việc giục các nhà văn sáng tác và thăm hỏi tặng quà mỗi khi có vị nào đó ốm đau. May mắn là tôi chưa được ông... thăm hỏi lần nào...), phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật thành phố Ðà Nẵng, Tổng biên tập Tạp chí Non Nước, Tổng thư ký hội Nhà Văn Ðà Nẵng... Ông là người rất tận tình với bạn bè, dù đó là đàn em như chúng tôi. Nhớ cái lần có cuộc họp các nhà văn ở Ðà Nẵng, trước khi ai về nhà nấy, ông đến và lôi trong cái cặp to đùng ra mấy xâu tré, đặc sản Ðà Nẵng, "của ít lòng nhiều", ông biếu mỗi người mấy cái về... uống rượu. Có hôm khuya rồi, ông vẫn đi bộ đến khách sạn: Tớ mới lĩnh chút nhuận bút còm, đãi các cậu chầu bia. Ra vỉa hè cho mát. Tôi nói thêm: cho... rẻ. Hàng năm bận mấy, ông vẫn về Phú Yên thăm mẹ, nhưng ông đã trở thành một phần Ðà Nẵng rồi. Một nhà văn trẻ Ðà Nẵng nói với tôi: Sẽ ra sao nhỉ, nếu một ngày nào đó Ðà Nẵng không còn cái dáng bê rê xe đạp kia? không còn những trang văn, bài thơ thấm đẫm tình yêu và trách nhiệm của nhà văn, nhà thơ Thanh quế?...
Ông vẫn viết rất khoẻ. Ta vẫn thường ngày thấy tên ông trên các báo tạp chí trung ương và địa phương. Sách vẫn ra đều đều. Và điều quan trọng, cậu con trai của ông, cháu Phan Tuy An, mấy năm nay cũng liên tục có thơ in trên các báo, đặc biệt là dịp tết. Hổ phụ sinh hổ tử. Ông rất tự hào vì khả năng "cha truyền con nối" văn chương này... Hôm qua, ông mới gửi tặng tôi tập sách mới nhất, tập "Những kỷ niệm, những gương mặt"...
Viết 2003
-----------
Bài này viết từ 2003 nên thông tin giờ đã thay đổi, bác Quế giờ đã nghỉ hưu, và vẫn sống cần mẫn ở Đà Nẵng.
6 nhận xét:
Đọc bài này em cảm động lắm bác Hùng ạ.
Chẳng biết còn mấy nhà văn, nhà báo cùng lứa với bác còn viết về lớp người đi trước, thời kháng chiến chống Mỹ, được như thế này ?
Nhiều người bây giờ đang vỗ ngực “chả ơn thằng cha con mẹ nào”, và nhiều người đang nghĩ lớp người như bác Thanh Quế là u mê đấy bác ạ.
Chưa kể có những người cùng lứa với bác Thanh Quế đang quay lại ỉa vào quá khứ của chính họ nữa. Thật tiếc.
Hòa Bình@: Vào 2003, khi bài này được viết ra thì vẫn còn nhiều nhà văn nhà báo viết như thế này.
Quá khứ của "chính họ" nào đó lại là sở hữu của chính họ, họ muốn làm gì với nó là quyền của họ, có vẻ như vậy mới Biện chứng. Phủ nhận cũng là một quy luật của phát triển.
Chả riêng gì bác Thanh Quế, trai thời loạn, làm khác đi không xứng mặt, thế thôi.
@Dong : Bài này bác Hùng viết năm 2003, nhưng hôm nay bác ấy vẫn đăng lên một cách trang trọng. Em cảm kích về điều đó.
Theo em hiểu thì "phủ định", chứ không phải "phủ nhận", mới là quy luật của phát triển. "Phủ nhận" và "phủ định" là khác nhau bác à.
"Trai thời loạn, làm khác đi không xứng mặt", như vậy hôm nay lẽ thường họ phải tự hào với những gì họ đã làm "xứng mặt thời trai trẻ" mới logic chứ bác? Em tôn trọng cái quyền của mỗi người đối với quá khứ của chính họ. Nhưng cái quyền được "tiếc" khi mất đi sự kính trọng một ai đó vì thái độ của họ đối với quá khứ (dù là của chính họ) thì vẫn là của em, đúng không bác ?
"Trước nhà em sông Vu Gia
Sau nhà em cũng lại là dòng sông"
Thanh Quế
Sao những bài như thế này lại ít người đọc và comment vậy nhỉ ?
Thanh Quế có bài thơ "Người đàn ông chờ vợ đẻ" khá hay. Bác VCH có không post lên cho anh em xem lại...một thời
Đăng nhận xét