Lẩn mẩn tìm hiểu kỹ, té ra cái mảnh đất
Gia Lai, hẹp hơn là Pleiku này, đã từng lưu dấu rất nhiều dấu chân văn nhân nổi
tiếng.
Thực ra thì, cùng là 2 tỉnh sát nhau, thậm chí có thời còn từng là một, nhưng có vẻ như đất Kon Tum từng là nơi có không khí văn nghệ nhộn nhịp hơn Pleiku. Đô thị Kon Tum được hình thành sớm hơn, có vẻ thơ mộng hơn đô thị Pleiku vốn dĩ là một đô thị phục vụ chiến tranh. Cứ nhìn kiến trúc 2 đô thị này thì biết.
Nhưng Pleiku ngay từ trước
năm 1975 đã có những thi nhân nổi tiếng sống và có những tác phẩm đến giờ vẫn
như mới. Sống ở Pleiku chẵn bốn mươi năm, mà nhiều khi vẫn còn ngỡ ngàng với đất
này. Nhiều thứ ngỡ ngàng, như mới đây tôi vừa ngỡ ngàng rằng, té ra đất này đã
từng có rất nhiều văn nhân nghệ sĩ đặt chân đến, hoặc sống ở đây cả vài chục
năm, hoặc đến rồi đi nhưng để lại dấu ấn.
Ấy là nhà thơ Vũ Hữu Định với bài thơ “Còn chút gì để
nhớ” mà nhạc sĩ Phạm Duy cũng trong một lần lên đây bắt gặp và phổ thành một ca
khúc bất hủ tới giờ về Pleiku. Rất nhiều người lên Pleiku vì bài hát ấy, trong
đấy có tôi. Chính cái hình ảnh “em Pleiku
má đỏ môi hồng/ ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông” đã khiến tôi, năm
1981, tốt nghiệp đại học là xung phong lên Pleiku dù hồi ấy chưa hình dung nó ở
đâu nữa chứ đừng nói hiểu nhiều về nó. Sau này nhà thơ Vũ Hữu Định về Đà Nẵng sống
và qua đời tại đấy.
Ấy là nhà thơ Kim Tuấn với những câu
thơ về Pleiku như thế này: “buổi chiều Pleiku không có mặt trời/ chỉ có mây
bay trên đầu ngọn núi” (Buổi chiều ở Pleiku), và đặc biệt là bài thơ “Kỷ niệm” được
nhạc sĩ Y Vân phổ nhạc: “từng bước từng
bước thầm/ hoa vông rừng tuyết trắng/ rặng thông già lặng câm/ hai đứa nhiều hối
tiếc/ sương mù giăng mấy đồi/ tay đan đầy kỷ niệm/ mưa giữa mùa tháng năm/ dật
dờ cơn gió thổi”. Theo họa sĩ Đinh Cường thì ngày xưa nhà thơ Kim Tuấn ở đường
Phan Bội Châu bây giờ. Ông có rất nhiều thơ được phổ nhạc, trong đó có bài “Kỷ
niệm” vừa nhắc mà khi phổ, nhạc sĩ Y Vân đổi thành “Những bước chân âm thầm”.
Năm 1974 nhà thơ Kim Tuấn cùng một số người bạn tổ chức sự kiện “Tuần lễ văn
hóa Pleiku” kéo được rất đông văn nghệ sĩ nổi tiếng từ Sài Gòn lên góp mặt. Cuối
đời ông về thành phố Hồ Chí Minh sống và qua đời ở đấy, dù quê gốc ông ở Hà
Tĩnh, vào Huế rồi lên Pleiku.
Là nhà thơ Du
Tử Lê với : “và những bông hoa quỳ/ rét vàng vai cỏ héo/ không còn dấu vết nào/ cho
ta tìm ta nữa” (Pleiku và hoa quỳ). Rất nhiều người Việt Nam lưu trong điện
thoại bài hát “Khúc thụy du” nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ ông. Ông cũng để lại
những câu thơ da diết về quê hương, Tổ quốc: “khi tôi chết hãy đem tôi ra biển/ nước ngược dòng sẽ đẩy xác trôi đi/
bên kia biển là quê hương tôi đó/ rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì”...
Tôi cũng từng có một bài viết về cái sự
trong thời kỳ mà cả thị xã Pleiku là một trại lính khổng lồ, được coi là cứ điểm
quân sự một con ruồi bay không lọt, thì đã từng có 2 ông Việt Cộng, sau này là
2 nhà văn nổi tiếng, có mặt ngay tại trung tâm thị xã một cách vô cùng ngang
nhiên và hoành tráng. Người thứ nhất là nhà văn Trung Trung Đỉnh hồi ấy là bộ đội
địa phương, trong một đêm đột nhập vào Pleiku ông bị kẹt lại. Thế là suốt ngày
ông nằm dưới cống Hội Phú để nhập nhoạng thì đóng khố đeo gùi ngậm tẩu nhập vào
đoàn bà con dân tộc thiểu số về nhà để thoát ra ngoài. Ông Đỉnh là người Hải
Phòng, số phận run rủi khiến ông “Lạc rừng” trở thành một anh lính địa phương của
tỉnh đội Gia Lai, và đến bây giờ thì ông là một nhà văn nổi tiếng với nhiều tác
phẩm về Tây Nguyên như “Đêm Nguyệt thực”, “Lạc rừng”, “Lính trận” vân vân.
Người thứ hai có mặt ở Pleiku thời kỳ
trước 1975 ấy là nhà văn Trương Vĩnh Tuấn. Ông vốn là tình báo kỹ thuật của
quân đội nhân dân Việt Nam, nhưng có thời lọt được vào dinh cơ tướng Phú, tư lệnh
quân đoàn 2 của quân đội Việt Nam cộng hòa, khi ấy đóng ở Pleiku, cả tháng trời.
Kể cho tôi nghe ông cười hịch hịch mà rằng, cô con gái tướng Phú còn có cảm
tình với ông nữa. Nhà văn Trương Vĩnh Tuấn sau này là Phó tổng Biên tập báo Văn
Nghệ Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhưng nhà văn người Kinh đầu tiên lên
Gia Lai thì phải kể tới Nguyên Ngọc. Từ đầu những năm 50 của thế kỷ trước,
ông Nguyên Ngọc đã là một người lính, về làng S’tơ của ông Núp để chuẩn bị cho
trận đánh nổi tiếng GM 100 ở Đăk Pơ. Khi ấy ông Núp là đội trưởng du kích. Lâu
nay nhiều người, cả tôi, cứ nghĩ là mãi cho đến đại hội anh hùng chiến sĩ thi
đua toàn miền thì ông Núp mới được “giao” cho ông Nguyên Ngọc để ông Ngọc khai
thác viết “Đất nước đứng lên”. Mãi gần đây khi đi cùng ông Ngọc về thăm lại
làng S’tơ tôi mới biết thì ra ông đã thông thuộc “Kông Hoa” tự đời nào. Đấy
cũng là một lý do để “Đất nước đứng lên” thành công, bởi ông đã quá hiểu mảnh đất,
con người ở đấy, nên ông đã rất tự nhiên cho ông Núp tự do hoành hành trong tiểu
thuyết của mình hết sức chân thật nhuần nhuyễn như chính ông là người trong cuộc.
Và còn nhiều văn nhân nữa đã lưu dấu nơi
này, có điều kiện chúng tôi sẽ xin kế tiếp.
Chính họ, đã là những người đặt nền
móng, bằng đá tảng, cho văn chương Gia Lai, góp phần làm nên một mảng đặc sắc của
văn hóa Gia Lai bằng văn học, cùng với văn học dân gian Jrai, Bahnar...
Ảnh nhà cháu chụp năm 2006, ông Trung Trung Đỉnh và ông Y Điêng
Ông Nguyên Ngọc và bé Dâu nhà cháu.
Nhà văn Trương Vĩnh Tuấn, nhà cháu chụp năm 2006 tại trụ sở báo Văn Nghệ 17 Trần Quốc Toán Hà Nội.
Báo Gia Lai cuối tuần hôm nay, 24/12/2021. Mục này chỉ cho tối đa 1000 chữ huhu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét