Ai đã ở Tây Nguyên những năm 80, 90 của thế kỷ trước thì hiểu được tâm trạng của những người như Thúy. Giản đơn nó đi một nhẽ, đằng này lại là cô giáo dạy văn, thừa nội lực để viết, đủ cảm xúc để thấy buồn, thấy trống vắng, thấy cô đơn- cái cô đơn vượt lên nỗi cô đơn thông thường, cô đơn của người viết- của những buổi chiều, những bình minh, và cả những ban trưa đỏ rực ba zan và bụi và gió và những mong manh thấp thỏm của những xa vắng kiếp người, cái cô đơn ngay giữa những người thân, ngay giữa gia đình mình, nỗi cô đơn trời hành. Tôi cứ hình dung Thúy trong những ngày những tháng những năm Krông Pắc ấy để rồi tự hỏi: Nếu không viết chị sẽ làm gì?...
---------
Sau
khi nhận lời một nhà văn đàn anh sẽ viết gì đó về Đinh Thị Như Thúy thì tôi mới
biết là mình đã… sai lầm. Bởi té ra là tôi chưa biết gì về Thúy cả. Mới thoảng
gặp nhau đâu vài ba lần trong những đám đông ồn ào. Hồi ấy Thúy lại chưa… nổi
tiếng nên cái sự chú ý của tôi nó cũng không rõ rệt lắm, mà Thúy lại có cách ứng
xử ở đám đông khá lạ, ấy là lánh xa, cứ lặng lẽ ở một góc nào đó, có thể là để
quan sát, cũng có thể là do tính cách nó thế, mà tôi lại có cái kiểu viết chả
giống ai là toàn lôi ký ức ra… nhai.
Thì cho đến nơi ở của Thúy tôi cũng
không nhớ, cứ nghĩ là Krông Buk, trong khi chị lại ở Krông Pắc, “thôi thì Pắc hay Buk thì cũng… Krông cả”, tôi đã
chữa thẹn khi bị Thúy trách trong một cái mail: “Anh
Hùng thiệt tình… , đến cái tên huyện em ở cũng không biết. Em ở huyện Krông Pắc
mà?”. Thì ra là cô gái Huế, cho dù sinh ở Đà Nẵng, cũng
vẫn mỏng và nhẹ lắm, theo tiếng gọi của tình yêu mà bỏ Đà Nẵng, “thành phố đáng
sống nhất Việt Nam”, để theo 1 anh học cùng trường nhưng khác khoa, khoa toán,
về tận cái huyện mà bây giờ khi gõ trên máy tính vẫn
phải 2 lần thao tác mới xong, còn đọc thì trẹo miệng, để ban đầu là dạy cấp 2, sau
đấy là dạy cấp 3. Mà nào có ít ỏi gì, hơn 20 năm ở cái huyện heo hút ấy để mới cách
đây 2 năm, chị chuyển về thành phố mà chị sinh ra. Thế mà lạ, tưởng đi là giải
thoát, té ra không phải, chị vẫn nhìn cái nơi chị sống, đã gửi cả thời tuổi trẻ
của mình ở đấy, một cách đầy trìu mến và biết ơn. Con người lạ thế, có nhiều
khi không lý giải nổi mình. Ngay như tôi đây, lên Pleiku từ cái thời mà đói khổ
là đương nhiên,
bây giờ nghĩ lại còn rùng mình,
thế mà bao nhiêu lần có cơ hội về các trung tâm đô hội lớn
vẫn không dứt ra mà đi được. Ngay bây giờ, nhiều bạn bè vẫn không thể hiểu nổi
khi tôi bảo, mình vẫn sẽ ở đây cho đến già. Trở
lại chuyện Thúy với Krông Pắc, chị viết về nó thế này,
trong một đoạn
thư trả lời phỏng vấn tôi đọc khá lâu rồi: “Tôi
sống ở huyện Krông Pắc của tỉnh Đắc Lắc từ năm 1989. Tính đến năm 2012 khi
chuyển về Đà nẵng là đã hơn 20 năm. Hơn
hai mươi năm sống và gắn bó với một vùng đất có làm cho nơi đó trở thành quê
hương không anh? Những đứa con đã được tôi sinh ra và nuôi dạy ở đây. Mỗi buổi
sáng thức dậy, mở cửa nhìn ra bầu trời, tôi có thể hình dung được hôm nay, mùa
này, kiểu thời tiết gì sẽ diễn ra, những người dân sẽ làm công việc gì cho mùa
màng của họ. Tôi nghe tiếng chim hót cùng với tiếng xe máy cày chạy rầm rập.
Nơi đây, những biến chuyển của đất trời, sự lam lũ mệt mỏi của con người, đều
không xa lạ với tôi.
... Nơi ngày đông gió thổi
là bài thơ dài tôi viết về Tây Nguyên, nơi tôi sống và gắn bó đã hơn 20 năm
nay. Một vùng đất kỳ lạ. Nắng bụi. Mưa bùn. Cây cỏ. Gió. Côn trùng. Tất cả đều
có gì đó hoang dã, khắc nghiệt nhưng lại rất đẹp đẽ, lôi cuốn. Tôi đã viết về
những điều đó bằng những ám ảnh và những rung cảm thật sự của bản thân mình.
Tôi nghĩ rằng sẽ có người đọc bài thơ đó và biết thêm một điều gì đó về Tây
Nguyên. Một Tây Nguyên không chỉ có cồng chiêng, thổ cẩm, rượu cần mà còn có những
thay đổi sống động của thiên nhiên, đất trời qua từng thời điểm, và tình yêu,
và những buồn vui, được mất của những con người nhỏ bé, lương thiện nơi này”...
Thư cho người khác mà đặt trong bài viết này như là chị gửi cho tôi…
Thúy có một lối viết rất lạ, viết như những ý
nghĩ rời rạc trong đầu, rồi thả nó ra như những viên sỏi trong tay một chú bé
lơ đãng, thế nhưng khi nó thành hình thành ý thì nó lại cứ âm âm trong đầu người
đọc, nó không u minh để đánh đố nhưng cũng không rành mạch để lười nhác. Nó khiến
người đọc phải cuốn vào, phải day dứt và
nhớ. Tôi nhớ có một cuộc trao đổi ở Hội An về thơ Thúy sau khi nghe Thúy đọc
thơ ở hội nghị văn trẻ năm nào đấy, có một nhà thơ kiêm giáo sư văn học
nói: Thơ Thúy buồn lắm, và Thúy bắt người khác phải buồn theo, khiến cho đọc rất
mệt. Mình mệt thì được rồi, mắc chi bắt người khác mệt theo? Tôi có kể cho Thúy
nghe chi tiết này, chị cười: Chuyện đó cũng bình thường mà anh. Mình viết mà để
người khác mệt và buồn theo thì cũng là hạnh phúc, tất nhiên là hạnh phúc… bất
đắc dĩ. Ít nhất là thơ mình cũng có người đọc, người nghe, và họ cảm nhận thế
nào là quyền của họ. Cũng có thể có người nào đó, đọc thơ mình một lần, và đó
là lần duy nhất, thì ngược lại, cũng có những người tìm thơ mình để đọc. Nhưng
đúng là khi viết, nhiều khi tôi bị chi phối quá mạnh bởi cảm xúc của mình, cứ
nghĩ chỉ viết cho mình, riêng mình thôi. Nếu tỉnh táo quá, liệu có còn khả năng
thu hút?...
Bây giờ thì không nói, có thế giới phẳng, giao thông cũng thuận tiện,
cái việc ngăn cách giữa địa phương này với địa phương kia, giữa nông thôn thành
thị… nó không u minh mù tắp lắm nữa. Nhưng hai chục năm trước, đang còn gửi thư
bằng bưu điện, gọi điện thoại thì có người đi kêu hoặc hẹn giờ ấy giờ ấy đến lảng
vảng chực ở cái điện thoại bàn duy nhất của cơ quan, một cô giáo ở tận một huyện
heo hút như thế, làm thơ mà “nổi” lên được quả là một sự lạ. Ngay bây giờ, nói
là không ngăn cách, là gần nhau như sau một enter nhưng rõ ràng là vẫn có rất
nhiều bất cập từ những người hành nghề viết lách tỉnh lẻ, từ mặc cảm tỉnh lẻ đến
thông tin đến giao tiếp, đến công bố tác phẩm và đặc biệt là công chúng. Điều ấy
để nói rằng Thúy có một nội lực rất mạnh, một sự lan tỏa tự thân, vượt qua khoảng
cách, qua không gian, qua các áp lực cả vô hình và hữu hình, để tồn tại như một
chứng nhân của “hữu xạ tự nhiên hương”, như bản thân mình là thế, chứ không cần
đánh bóng, lăng xê, không cần chạy chọt làm mọi cách để nổi tiếng. Thậm chí có
cảm giác Thúy luôn lảng tránh những đám đông, lảng tránh những ồn ào văn
chương, kể cả các sự kiện chính đáng, lặng lẽ thu mình lại quan sát và suy ngẫm.
Ngay chuyện chị chuyển về Đà Nẵng mấy năm rồi mà đã mấy người biết? Như người
khác thì đã lên mạng khoe ầm ầm, công bố ầm ầm. Chị cũng có một tài khoản
facebook nhưng vào xem thì thấy chủ yếu là để cho người khác tag vào rồi chị nhẹ
nhàng comment: dạ cám ơn, hoa đẹp quá…
Mà cái lý do để
Thúy cầm bút ban đầu nó cũng đơn giản, ấy là cái vùng chị dạy học ấy, học trò rất
ít sách để đọc, chỉ đọc những gì trích trong sách giáo khoa. Đến cả giáo viên
cũng vậy. Thế nên chị viết, tất nhiên là từ nội lực, từ sự thôi thúc tự thân, từ
cái khả năng trời cho, và không ngoại trừ cho chính học trò mình, cho mình, để
chống chọi với cái cô đơn, cái thiếu hụt, cái cảm giác vừa thừa thãi vừa bâng
khuâng mỗi khi chiều xuống ở cái thị trấn phố huyện nghèo Tây Nguyên ấy. Ai đã ở
Tây Nguyên những năm 80, 90 của thế kỷ trước thì hiểu được tâm trạng của những
người như Thúy. Giản đơn nó đi một nhẽ, đằng này lại là cô giáo dạy văn, thừa nội
lực để viết, đủ cảm xúc để thấy buồn, thấy trống vắng, thấy cô đơn- cái cô đơn
vượt lên nỗi cô đơn thông thường, cô đơn của người viết- của những buổi chiều,
những bình minh, và cả những ban trưa đỏ rực ba zan và bụi và gió và những mong
manh thấp thỏm của những xa vắng kiếp người, cái cô đơn ngay giữa những người
thân, ngay giữa gia đình mình, nỗi cô đơn trời hành. Tôi cứ hình dung Thúy
trong những ngày những tháng những năm Krông Pắc ấy để rồi tự hỏi: Nếu không viết
chị sẽ làm gì? Và nếu chí thú như những người khác, với chồng với con, với heo
gà, với khoai lang su su, với những rẫy cà phê “bỏ thì thương vương thì tội” của
công chức một thời thì có một Đinh Thị Như Thúy hôm nay không? Nói thế nhưng
tôi biết chị đã rất tận tụy với gia đình, với chồng, với con, với cha mẹ anh em
của cả 2 bên, một nỗi tận tụy rất đàn bà, cũng như chị đã hoàn thành sứ mệnh một
cô giáo dạy văn từ cấp 2 đến cấp 3, hoàn thành trách nhiệm của một công chức thời
khó khăn ở một ngôi trường huyện, để rồi từ đấy chị vượt lên, bay qua những khoảng
cách vô hình, những mặc cảm vô định, trở nên một hiện tượng trên văn đàn, đến với
người đọc khắp nơi…
Tôi và Thúy bắt đầu có những
trao đổi Email từ khi nhận lời viết về Thúy cho tạp chí Nhà Văn và tác phẩm.
Những email rời rạc vì thời gian này Thúy liên tục gặp “hạn”. Cứ rời rạc chắp
nối thì tôi hình dung ra một mình Thúy bươn bả vất vả thế nào. Chuyển việc từ
Krông Pắk về Đà Nẵng, một việc không hề dễ dàng đối với những công chức nghèo
hiện nay, làm nhà, chồng ốm khá nặng, con trai đi thăm bố thì bị lật xe gãy tay
mổ đến 2 lần, và mẹ thì cũng nhập viện… Thúy không muốn tôi kể những chuyện này
vào bài nên tôi chỉ lướt như thế chứ ở ngoài nó còn “nan giải” hơn nhiều. Cũng
chắp nối thì té ra quê của mẹ Thúy rất gần quê tôi. Ngày xưa học đại học mỗi
lần từ trường về nhà, nếu đi xe đạp thì tôi hay đạp theo đường Anlosia, tức An
Lỗ- Sịa. Sịa chính là quê ngoại của
Thúy, giờ đang xây ở đấy một thành phố vệ tinh cho Huế. Còn quê nội của cô cũng
gắn với một câu ca dao nổi tiếng: Không đi thì sợ chính phủ tình nghi/ Mà đi thì sợ Đồng Di, Tây Hồ. Đồng Di thuộc xã Phú Hồ huyện Phú Vang, vì thế mà
Thúy nhận mình là Huế nhưng không phải Huế thành Nội hay Kim Long. Những người
Huế xa quê thường nhớ Huế bằng một nỗi nhớ rất lạ, nó vừa như ăn năn lại vừa
như mang nợ, dù họ, bằng cách này hay cách khác, đã tình nguyện rời quê để chọn
nơi khác làm quê. Người Việt tha hương cũng nhiều, nhưng cái cách tha hương của
người Huế lại khác. Ấy là khi ở với Huế thì rất ấm ức, khó chịu, tìm cách để
đi, nhưng đi rồi thì nhớ, thì luôn luôn muốn trở về, nhưng là chỉ về thăm. Tôi
nhớ nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có lần nói, trên thế giới có 2 dân tộc rất lạ
là Palestin và… Huế, là làm gì thì làm, ở đâu thì ở, hàng năm đều tìm cách trở
về. Về thăm rồi lại đi. Và khi đi thì luôn đau đáu mình là Huế, đau đáu nhớ đau
đáu tìm dịp trở về. Nhiều người Hà Nội gốc không có được điều này! Mới tối qua
tôi nói chuyện điện thoại với một chị người Huế giờ đang định cư ở Đức. Khá
thành đạt dù đã trải qua rất nhiều gian truân, nhưng chị vẫn rất đau đáu với
Huế, tháng 3 này chị sẽ về Huế, có ý định “đầu tư một cái gì đấy” dù chị đã có
một khách sạn khá lớn đối diện khách sạn Hương Giang. Biết tôi cũng Huế do đọc
trên mạng, chị điện chia sẻ và trao đổi thêm thông tin. Tôi hỏi sao chị không
đầu tư Sài Gòn, Hà Nội… những thành phố lớn dễ làm ăn hơn. Chị bảo biết thế
nhưng Huế nó là quê mình, dù còn điều này điều kia nhưng quê mình vẫn phải là
số một.
Tháng 1 năm 2009, Thúy về
Huế để nhận tặng thưởng về Thơ của Tạp chí Sông Hương. Khi được mời
lên phát biểu chị đã không nói được gì. Vốn không phải là người ứng khẩu nhanh nhạy, lời mời lại đột ngột quá nên chị lúng túng. Chị sinh ra ở 32 Phủ Hoài Đức, phường Phú Cát, nhưng giờ chị thấy mình
lạc lõng ở ngay nơi mình sinh ra, bởi số phận đã không cho chị gắn bó với Huế. Tôi hiểu cái sự mặc cảm và cả tủi thân của Thúy, tôi cũng là một gã Huế
xa quê, cũng từng có những mặc cảm như thế, bởi từ cả 2 phía, đến một lúc nào
đấy, nó hết, bởi biết bao người Huế bây giờ có phải là Huế gốc đâu, những người
như Thúy, dẫu không sinh ở Huế, không sống ở Huế, lại trở thành Huế zin. Thúy
làm thơ về Huế thế này: Mỗi
ban mai/ Những ám ảnh của giấc mơ đêm đè nặng/ Như chiếc đòn gánh trên vai
người thiếu phụ chân đất đầu trần/ Gánh đậu hủ qua cầu Bạch Hổ ban trưa/ Hai tà
áo gió cuốn về hai phía.(Người đàn
bà không giấc ngủ). Một sự sẻ chia với cái nghèo bằng một hình ảnh rất Huế. Sự
mưu sinh vất vả, và những giằng xé khác trong bản thân mỗi người mà sự vất vả
thân xác kia chỉ là một, là cái cớ…
Thế
nhưng, cái phần Huế ấy chủ yếu hiện ra ở con người, giọng nói, cách sống của
Thúy, chứ phần chữ của chị, tôi thấy Tây Nguyên đã chiếm gần hết. Đọc thơ chị,
tôi hình dung ra từng cái bậc đá đi xuống một quán cà phê Cao nguyên mà chị và
bạn bè hay ngồi, hình dung ra những con đường đầy gió những giấc mơ đầy gió và
những thảm quỳ đầy gió. Hình dung ra những đôi mắt nâu ngơ ngác trong chiều,
những bàn chân ám bụi, những vạt đồi phóng đãng xuyên tắp chân trời với thăm
thẳm nỗi niềm mà nếu ai chưa một lần đặt chân đến sẽ không hình dung được, ở đó
có cỏ xanh hoa đỏ và những thắc thỏm thời gian cô đặc như viên sỏi chậm rãi
dịch mình bên bờ suối. Ở đó hơn hai mươi năm của đời một người con gái từ thiếu
nữ thành bà mẹ 2 con, từ một cô giáo lơ ngơ thành một nhà thơ nổi tiếng. Tôi
vẫn tin về Đà Nẵng chị cũng sẽ vẫn viết, nhưng nỗi ám ảnh Tây Nguyên trong chị
cũng sẽ không bao giờ dứt, dù nó không hiện ra trong chữ thì nó ở hơi chữ,
không ở nội dung thì ở hình thức, không ở hình thì ở bóng, không ở đời thực thì
ở những giấc mơ… Và tôi thấy không thể không hỏi thêm chị mấy điều. Và thế là
câu hỏi phóng đi, gần tháng sau thì câu trả lời phóng về, tất nhiên, qua mail:
Bên cạnh
rất nhiều người thích thơ chị thì cũng có nhiều người không thích. Có bao giờ
chị tìm hiểu tại sao không?
Việc thích và không thích thơ văn của một
tác giả nào đó là chuyện bình thường anh ạ. Tuy nhiên tôi có đôi chút hoài
nghi. Tôi nghĩ có người đọc mình và
không thích thật. Nhưng có người họ nói theo, hoặc đọc lõm bõm. Bởi đôi lúc đây
đó tôi thấy họ cứ nói chung chung, hoặc trích thơ cứ lẫn lộn. Có người khi nói
về tập “Ngày linh hương nở sáng”, để
minh chứng họ bèn dẫn một bài từ tập “Cũng
đi qua mùa hạ”. Thật khó tin họ có đọc mà lại dẫn bừa như thế.
Xê dịch,
thay đổi môi trường là mong muốn của nhiều người cầm bút, nó như chất xúc tác để
ta có một không gian rộng hơn, có thể tăng trải nghiệm, làm mới mình… cuộc hạ
sơn của chị vừa qua có ý nghĩa gì?
Việc đi, nếu chỉ là sự dịch chuyển của đôi
chân cho lạ mắt lạ tai thì có khi chẳng giúp được gì cho người viết đâu anh,
ngoại trừ việc viết ra vài bài văn chương du lịch theo kiểu cảnh lạ đường xa.
Có người chỉ ở một nơi nhưng đi bằng đầu bằng suy tưởng có khi lại “đi” được
nhiều. Vậy nên xê dịch, thay đổi môi trường cũng chỉ để làm mình mới lên nhưng
cũng không chắc làm tác phẩm mình mới lên được đâu.
Tôi chuyển về lại Đà Nẵng là vì các con của
tôi. Con trai lớn của tôi đã về học ở Đà Nẵng mấy năm nay. Tôi cũng muốn bọn trẻ
được về thành phố, sống gần ông bà và
các cậu dì. Nếu chỉ là sự chọn lựa cho vợ
chồng tôi, có khi tôi lại không về.
Thúy có lối viết
rất đặc trưng, rất Đinh Thị Như Thúy, ấy là vừa rất cụ thể, cụ thể đến cá biệt,
nhưng rồi từ đấy người ta lại thấy thấp thoáng có ý nghĩ của mình trong ấy.
Không biết chị có nhận ra điều này không, tự nó đến hay chị cố tình thế. Kiểu
viết này nó vào cả tản văn của chị nữa. Thơ chị cũng sử dụng câu rất dài, rất tự
nhiên, như cái đường mòn hun hút mà lại gập ghềnh của một lối xuống quán cà phê
vườn nào đó, chữ cứ rải ra như đá cuội, và những dây cỏ lòa xòa quấn quýt những
thảm rêu. Người bước vào phải gượng chân
mà tránh, và vì thế mà phải cẩn thận, phải rất nâng niu, cả sỏi, cỏ, con đường
và bàn chân… Có lẽ cái ám ảnh Tây Nguyên của một cô gái đồng bằng, và ngược lại
cái nhớ, sự hoài vọng cố hương của một cô gái gắn toàn bộ tuổi trẻ của mình với
vùng đất lạ đã khiến chị có lối viết đặc trưng ấy. Lại chợt nghĩ, liệu có bao giờ chị có ý định thử sắp xếp nó lại, như người sửa sang cổng ngõ, xếp
đặt ngăn ngắp nhà cửa để đón tết chẳng hạn? Là nghĩ vớ vẩn thế chứ nếu
thế thì nó chẳng còn Đinh Thị Như Thúy, chẳng có “Nơi ngày đông gió thổi”, chẳng
có “Ngày linh hương nở sáng”, chẳng có “Cùng đi qua mùa hạ”, “Phía bên kia cây
cầu”…
Vừa là 1 cô giáo, vừa có gien người Huế, nhỏ nhẹ và thùy mị, nếu phải
ngồi trong 1 cuộc nhậu, Thúy sẽ làm gì? Hò hét, cụng ly hay im lặng rót bia,
nhắm người khác?
Tôi rất ít có mặt trong các cuộc nhậu. Nhưng
nếu có mặt có thể tôi chỉ cụng ly và ngồi nhìn. Tôi nghĩ nhìn ngắm mọi người là
cách hiện hữu giữa đám đông của tôi. Nhưng, còn tùy không khí của cuộc gặp nữa
chứ. Nếu ngồi giữa những người tôi yêu quý thì biết đâu khi đấy tôi lại khác.
Bây giờ thì
tôi phát hiện, viết về Thúy khá dễ, dù phải khá lâu, và tôi chỉ việc ghép những
gì chúng tôi trao đổi qua email. Khi
ghép tôi vẫn ám ảnh những viên sỏi, rải xuống cái ngõ của một quán cà phê Cao
nguyên, đầy gió với rười rượi những đôi mắt nâu…
VĂN CÔNG HÙNG
3 nhận xét:
- Tôi đã được gặp ĐTNT, một cô giáo dịu dàng. Tôi cũng đã đọc Ngày linh hương nở sáng và Phía bên kia cây cầu. Đó là 2 tập thơ hay của ĐTNT.
- Cám ơn bài viết rất sinh động của nhà thơ VCH.
Vũ Xuân Tửu
Người Huế và người Palestin ?
Tui nghĩ mãi ko tìm ra điểm giống nhau của họ .
Ông A-ra-fat chẳng giống ông bí-thư -anh - hùng của Huế tí tẹo nào .
Té ra, VCH vẫn lạm dụng "TÉ RA" mà chưa được điều tiết hợp lý, thật đắng lòng, hehe...
Đăng nhận xét